Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Hai - Kim Luân Phật đảnh Tượng Pháp - Tập Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐÀ LA NI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẦN HAI
KIM LUÂN PHẬT ĐẢNH TƯỢNG PHÁP
TẬP BA
Từ Ngoại Viện thứ hai: Đường viền bên trong góc Tây Bắc, đầu góc hướng về Tây liệu lường sáu ngón tay, khắc đầu chấm xuống một điểm, từ điểm hướng về Nam liệu lường.
Lại dùng một mảnh trúc từ góc hướng về Nam liệu lường, khắc đầu chấm xuống một điểm, từ điểm hướng về Tây liệu lường, hai đầu khác cùng trụ nhau rồi chấm xuống một điểm. Góc Đông Nam, Tây Bắc cũng như vậy liệu lường, chấm xuống một điểm.
Từ bên cạnh Tây lấy sợi dây trong Phấn ra.Ṭrở lại từ đầu sơi dây cột ép trên điểm ở góc Tây Bắc, vị thầy hướng về điểm cột ép bên cạnh Nam ghép ráp dây, hướng đến ba ngón tay của điểm thì một lần ghép ráp dây. Phương Nam, Tây, Bắc cũng ghép ráp như vậy, mỗi mỗi y theo điểm ghép ráp. Tổng cộng ba lớp xong.
Lại đem sợi dây, từ đầu sợi dây cột ép ở góc Đông Bắc, vị thầy hướng về điểm cột ép ở đầu Tây nắm lấy liệu lường sợi dây chồng lên nhau ngang bằng. Trở lại, từ chỗ đến của đầu dây ở góc Đông Bắc làm một điểm ghi nhớ, từ chỗ ghi khắc, hướng về góc Nam liệu lường chọn lấy trung tâm chấm xuống một điểm phấn. Phương Nam, Tây, Bắc cũng liệu lường như vậy, chấm xuống một điểm ở trung tâm.
Từ trung tâm của mặt Đông, theo điểm hướng về Bắc liệu lường đo một mảnh trúc, tại đầu đo chấm xuống một điểm. Trừ Trung Điểm hướng về Nam liệu lường một mảnh trúc, tại đầu đo chấm xuống một điểm. Lấy một mảnh trúc đo, liệu lường bốn ngón tay, bẻ cong đầu.
Trong Phấn bên trong, từ điểm ở Bắc hướng về Đông ấn xuống, từ đầu ấn hướng về Bắc ấn xuống, từ đầu ấn hướng về Đông ấn xuống. Từ điểm bên cạnh Nam trở lại hướng về Đông ấn xuống, từ đầu ấn hướng về Nam ấn xuống, từ đầu ấn hướng về Đông ấn xuống.
Lấy sợi dây trong phấn ra, từ đầu ấn ở phía Bắc cột ép sợi dây. Vị thầy hướng về Nam ấn đầu xuống cột ép sợi dây, một lần ghép ráp. Tiếp theo, làm cửa Đông xong.
Phương Nam, Tây, Bắc cũng làm như vậy, cho đến ba lớp, bốn cửa cũng như vậy pháp làm cửa, chỉ từ ba lớp, mở Thể cửa Tây, ba cửa còn lại nghĩ định đóng lại. Làm bốn cửa xong, liền lấy phấn năm màu. Dùng nước nóng thơm có tám màu hòa với phấn năm màu, từ góc Đông Bắc của Ngoại Viện an vật khí đựng phấn, chú vào một trăm lẻ tám biến.
Vị thầy hướng về chỗ ngồi bên trên lối đi bên trong của viện thứ nhất, khiến người lúc trướng hướng về chổ ngồi ở phía Đông, lấy hai mảnh trúc đo. Từ thứ hai dựng ba lối đi, đầu đường viền ở Bắc hướng về Nam liệu lường một xích 1/3m.
Đườṇg viền bên ngoài, đường viền bên trong ở Đông cũng liệu lường như vậy. Tại đầu của hai mảnh trúc thì một lần ghép ráp dây. Hướng về ba ngón tay ở Bắc một lần ghép ráp dây. Lại hướng về ba ngón tay ở Bắc một lần ghép ráp dây. Cho đến, hướng về Nam liệu lường chia làm bảy vị trí. Nam, Bắc cũng như thế. Phía Nam của cửa ở mặt Tây chia làm ba vị trí, cửa Bắc cũng như thế chia làm ba vị trí.
Phía Đông của Viện thứ hai trở lại liệu lường như vậy, ghép ráp làm sáu vị trí. Nam, Bắc cũng như thế chia làm sáu vị trí.
Phía Nam của cửa ở mặt Tây, ghép ráp làm hai vị trí, chửa Bắc cũng như thế chia làm hai vị trí.
Từ góc Đông Bắc làm Kim Cương Địa Ấn. Dùng hai màu đen, trắng làm. Từ mặt Bắc, tại đất khoảng một khuỷu tay làm lối đi giới hạn của phấn trắng thì hạ phấn trắng xuống lần nữa. Tiếp theo, hạ xuống lối đi màu đỏ. Tiếp theo, hạ xuống lối đi màu xanh. Tiếp theo hạ xuống lối đi màu vàng. Tiếp theo hạ xuống lối đi màu đen. Lối đi năm màu này từ cạnh bên ngoài làm một vòng hạ xuống lối đi năm màu.
Đường viền bên ngoài thứ hai, thứ ba cũng làm như vậy. Trung tâm làm hoa sen ngàn cánh, dùng năm màu làm.
Ba Viện, bốn góc theo lệ là vị trí của Kim Cương Địa ấn.
Kim Cang Địa Ấn pháp.
Viện Thứ hai: Mặt Đông, đầu phía Bắc, thứ hai là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, thứ ba là Bát Nhã Ba La Mật Đa Bồ Tát, thứ tư là Thích Ca Kim Luân Phật, thứ năm là Thích Ca chuyển pháp luân Phật, thứ sáu là A Di Đà Phật, thứ bảy là Thích Ca Mâu Ni Phật Nhãn. Vị trí ở mặt Đông xong.
Mặt Nam: Thứ hai Kim Cang Mẫu Ma Ma Kê Bồ Tát, thứ ba Thương Yết La Bồ Tát, thứ tư Ương Câu Thí Bồ Tát, thứ năm Kim Cang Tạng Bồ Tát, thứ sáu Kim Cang Quân Trà Lợi Bồ Tát, thứ bảy Tùy Tâm Kim Cang. Vị trí mặt Nam xong.
Mặt Tây: Đầu Nam, vị trí thứ hai thứ ba đều làm Kim Cang Xoa.
Mặt Tây: Cửa Bắc, thứ hai thứ ba cũng làm chày Tam Cổ Kim Cang.
Mặt Bắc: Đầu Đông, thứ hai là Quán Thế Âm Mẫu, thứ ba la Da Du Đà La Bồ Tát, thứ tư là Quán Thế Âm Muội, thứ năm là Quán Thế Âm Vương, thứ sáu là Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Bồ Tát, thứ bảy là Tỳ Câu Trí Quán Thế Âm Bồ Tát.
Mặt Bắc: Đầu Tây, thứ hai là Bất Không Quyến Sách Bồ Tát, thứ ba là Mã Đầu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Mặt Đông: Ngoại Viện, đầu Bắc, thứ hai là Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương, thứ ba là Địa Tạng Bồ Tát, thứ tư là Hư Không Tạng Bồ Tát, thứ năm là Thích Ca Phật Cái. Cái lọng, thứ sáu là Thích Ca Phật Đao. Cây đao, thứ bảy là Thích Ca Phật Sóc. Cây giáo dài, thứ tám là Thiên Đế Thích.
Mặt Nam: Thứ hai là A Kỳ Nễ Địa Bà Na, thứ ba là Nam Phương Tỳ Lô Lặc Xoa, thứ tư là Kim Cang Điệp, thứ năm là chày Kim Cang, thứ sáu là Hỏa Đầu Kim Cang, thứ bảy là Kim Cang Đồng Tử, thứ tám là Kim Cang Nhi.
Cửa Tây: Phía Nam thứ hai thứ ba thứ tư thì một cây Sóc. Cây giáo dài, hai cây Xoa. Cây chỉa ba.
Cửa Bắc: Thứ nhất thứ hai là cây Xoa, một cây Sóc. Thứ ba là Tỳ Lô Bác Xoa.
Mặt Bắc: Đầu Tây, thứ hai là Đa Lợi Tâm Quán Thế Âm, thứ ba là Nhất Tha Tam Bát Để Ca La Quán Thế Âm, thứ tư là Tùy Tâm Quán Thế Âm, thứ năm là Tam Cổ Xoa, thứ sáu là Bắc Phương Tỳ Sa Môn, thứ bảy thứ tám là một cây Xoa, một mũi nhọn bịt đầu mũi tên.
Trung Tâm là Đế Thù La Thí Thước Kê Mô Nễ. Tejorāśi sākyamuṇi là Đạo Tràng Chủ, một trăm chén đèn với vị trí quy ước làm thức ăn uống.
Mọi loại hương hoa, mọi loại thức ăn uống, mọi loại bát nước với mười sáu bình nước…mỗi mỗi đều Chú vào một trăm lẻ tám biến. Từ góc Đông Bắc để đèn, để thức ăn, để cái bình. Bốn góc, bốn cửa, trung tâm để cái đèn cúng dường làm pháp, mỗi mỗi như lúc trước Ngày bảy, ngày tám hai đêm chẳng ngủ.
Ngày mười ba, ngày mười bốn, ngày mười năm thì ban đêm chẳng ngủ.
Ngày tám, ngày mười ba, ngày mười bốn, ngày mười năm của tháng thì nhịn ăn, chỉ được ăn nhóm thuốc, bới bơ, sữa, miến.
Riêng ngày mười năm của tháng, đầu canh năm lấy mười sáu cái bình nước, đi để ở cửa Tây, dùng Kim Cang Ấn ấn vào cái bình, chú một trăm lẻ tám biến, lễ bái phát nguyện: Đệ Tử. Họ tên là… nay theo Phật thỉnh nước công đức của Tam Muội Đà La Ni quán đảnh thân tâm, hai nghiệp thanh tịnh, đầy đủ hạnh nguyện.
Liền đem bình nước, lên trên Thủy Đàn nằng hương phân bò.
Cởi bỏ quần áo, đứng hướng mặt ngay Chánh Đông, nâng bình nước để trên đầu, miệng nói rằng: Mười phương tất cả Phật ban cho con. Họ tên… tất cả hạnh nguyện của Bồ Tát.
Trước tiên, từ Đế Thù La Thí ở trung tâm, quán thân tâm xong, tiếp theo lấy cái bình rưới rót hết quần áo, với vào Đạo Tràng, hành Đạo, làm Nghiệp.
Khi Hành Giả được nguyện với mọi loại tướng mạo thì chẳng đướng hướng về người nói. Hành đạo, làm nghiệp cũng chẳng được hướng về một người nói.
Lại có pháp.
Muốn khiến cho tất cả La Xà. Rāja: Vua chúa sanh Tâm vui vẻ. Nấu cháo gạo tẻ sữa, ở cửa Tây của Đạo Tràng trước tiên chú vào cháo sữa một ngàn không trăm tám mươi biến. Từ mé phía Nam của cửa, lấy củi cây Cốc nhóm trên lò lửa, thỉnh Thích Ca Phật ngồi trên tòa hoa sen trong lò lửa.
Lấy chút ít cháo sữa, Chú một biến thì một lần ném vào trong lửa thiêu đốt, như vậy mãn một trăm lẻ tám biến. Sáng sớm, giờ Ngọ, hoàng hôn thì làm pháp, mãn bảy ngày thời tất cả La Xà phụng thỉnh nghênh đón, mọi loại cúng dường sanh đại hoan hỷ.
Lại có pháp. Chú vào Tô Hợp Hương một ngàn không trăm tám mươi biến. Ở cửa chánh Tây, trên lò lửa báu, thỉnh Thích Ca Phật ngồi trên tòa hoa sen trong lò lửa.
Lấy Tô Hợp Hương lúc trước, Chú một biến thì một lần ném vào trong lửa thiêu đốt cúng dường. Ngày đêm sáu thời làm pháp, năm thời cũng được. Mỗi thời tụng riêng một trăm lẻ tám biến thì tất cả Chư Phật, tất cả Bồ Tát, Kim Cang, hàng Trời… sanh đại hoan hỷ bảy ngày làm pháp.
Lại có pháp. Chú vào Huân Lục Hương một ngàn không trăm tám mươi biến, dựa theo lúc trước làm pháp, ngày đêm năm thời, bốn thời cũng được. Mãn bảy ngày xong thì tất cả Phạm Vương, Ma Hề Thủ La sanh đại hoan hỷ.
Lại có pháp. Chú vào An Tất Hương một ngàn không trăm tám mươi biến, ngày đêm bốn thời, ba thời cũng được. Mãn bảy ngày thì tất cả các Thần Vương, bốn Đại Thiên Vương, các hàng Quỷ Vương sanh đại hoan hỷ.
Lại có pháp. Chú vào Bạch Giao Hương một ngàn không trăm tám mươi biến. Dựa theo lúc trước làm pháp, mãn bảy ngày thì tất cả các Quỷ sanh đại hoan hỷ.
Lại có pháp. Chú vào hạt cải trắng, muối một ngàn không trăm tám mươi biến, chà xát thân tâm của mình. Chú một biến thì một lần ném vào trong lửa. Dựa theo lúc trước làm pháp, mãn bảy ngày xong thì tất cả bệnh đột ngột, tất cả chướng đột ngột, tất cả việc quan, nhóm việc của miệng lưỡi… thảy đều tiêu diệt.
Lại có pháp. Chú vào hạt cải trắng một ngàn không trăm tám mươi biến. Liền lấy chút ít, Chú một biến thì một lần ném vào trong lửa. Dựa theo lúc trước làm pháp, mãn bảy ngày thì tất cả quan nhân, tất cả Ma Hễ Lợi sanh đại hoan hỷ.
Lại có pháp. Chú vào mè, hoa lúa đậu một ngàn không trăm tám mươi biến. Thỉnh Thích Ca Phật ngồi trên tòa hoa sen trong lửa. Lấy chút ít, Chú một biến thì một lần ném vào trong lửa, cúng dường, một trăm lẻ tám biến.
Dựa theo lúc trước làm pháp, mãn bảy ngày xong thì sức của tâm, sức của thân thảy đều đầy đủ. Tất cả chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Bồ Tát Ma Ha Tát. Chư Thiên, Thiện Thần thường tùy theo hộ vệ.
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Người chưa vào ba Mạn Trà La Đại Đạo Tràng thì chẳng được nói Tam Muội Đà La Ni Ấn Chú này, chẳng được lắng nghe, chẳng được thấy pháp.
Nếu vì họ nói sẽ đọa vào Địa Ngục, người nghe pháp ấy bị báo ngu si. Người tự ý thấy pháp thì quỷ thần giận mắng, tuy tự mình từng vào Tam Muội Đạo Tràng, nếu chằng dùng Tâm hộ pháp coi nhẹ như thế, ở nơi lộ thiên làm Pháp Ấn Chú thì bị quỷ thần ác được dịp thuận tiện gây hạo.
Nếu người hay chí thành, kiên cố thọ trì thì tất cả Chư Thiên tùy theo thân làm hộ giúp.
Pháp Đà La Ni này như mặt trời soi chiếu sương, như lửa đốt mọi vật. Trong tất cả núi thì Tu Di là hơn hết.
Kinh này cũng như thế, trong các Kinh là hơn hết. Trong tất cả nước thì biển lớn là cùng tột, Kinh này cũng như thế, trong các Kinh là cùng tột. Trong tất cả vì sao thì nguyệt thiên là hơn hết. Kinh này cũng như thế, trong các Kinh rất ư là bậc nhất.
Bấy giờ, các chúng Tỳ Kheo, Bồ Tát Ma Ha Tát, tám Bộ Trời Rồng, các hàng quỷ thần… nghe điều Đức Phật đã nói đều rất vui vẻ, làm lễ, phụng hành Phật Đảnh pháp xong. Từ đây trở xuống, nói rõ pháp của Chư Phật.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng Vô Tưởng - Chương Mười Bốn - Thần Thông
Phật Thuyết Kinh đăng Chỉ Nhân Duyên
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Bảy - Phẩm Mạn Thù Thất Lợi - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Pháp Tập Yếu Tụng - Phẩm Hai - Phẩm ái Dục
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Nhập Lăng Già - Phẩm Hai - Phẩm Thực Hành Tất Cả Pháp - Phần Bốn
Phật Thuyêt Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Mười Chín - Phẩm Thánh Hạnh - Phần Hai