Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Bảy - Phẩm Thân Niệm Xứ - Tập Mười Sáu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẬT THUYẾT
KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẨM BẢY
PHẨM THÂN NIỆM XỨ
TẬP MƯỜI SÁU
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem phía Bắc cõi Diêm Phù Đề lại có những núi, sông, biển và đảo nhỏ nào?
Dùng văn tuệ hay Thiên Nhãn, vị ấy thấy giữa hai cõi Diêm Phù Đề và Uất Đan Việt không có nước nào khác. Cõi Uất Đan Việt rộng mười ngàn do tuần, có ba mươi sáu ức làng xóm đáng yêu, ba mươi sáu ức nơi chốn thọ hưởng an lạc, một phần ít Trời Tứ Thiên Vương, Trời không có xương, thịt, mồ hôi bẩn. Trời cũng không nháy mắt.
Người Cõi Uất Đan Việt có xương, thịt, mồ hôi bẩn, mắt có thể nhìn nhấp nháy, không có ngã và ngã sở, cũng không có ngã mạn. Khi chết, nhất định sẽ sinh lên Cõi Trời, xa lìa kiêu căng, dua nịnh, tà vạy, không khởi lên sự ganh ghét, tâm thường hoan hỷ, không sợ Dạ Xoa, La Sát, quỷ Tỳ Xá Già, quỷ Cưu Bàn Trà, sư tử, hổ, báo, các loài Dạ Xoa, rồng dữ, trùng độc.
Cũng không có sự hoang tàn, thiếu thốn, lạnh nóng, đói khát và tật bệnh, xa lìa tất cả oan gia kinh sợ, thương yêu kính trọng lẫn nhau, không bị trở ngại, không lo sợ các nạn Vua, nạn giặc, nước, lửa và đao binh. Cây vàng sáng chói, ngày đêm không phân biệt. Chim vàng, chim bạc, chim san hô, hoặc là cây, hoặc là chim đủ các màu sắc, vui vẻ như người, dầu chúng không có tâm thức, nhưng cũng giống như pháp người.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem cõi Uất Đan Việt lại có những mùi vị đáng ưa nào?
Dùng văn tuệ hay Thiên Nhãn, vị ấy thấy Cõi Uất Đan Việt có mười núi lớn, đó là:
1. Núi Tăng Ca Xa.
2. Núi Đẳng Phong.
3. Núi Đà Ma Vật Lực Già.
4. Núi Bạch Vân Trì.
5. Núi Cao Tụ.
6. Núi Phổ Man.
7. Núi Thời Tiết Lạc.
8. Núi Trì Hoan Hỷ.
9. Núi Như Ý.
10. Núi Câu Xa Da Xá.
Cõi Uất Đan Việt có biển lớn bao quanh, giống như Cõi Diêm Phù Đề có bốn núi lớn, đó là:
1. Núi Tuyết.
2. Núi Dân Đà.
3. Núi Ma La Da.
4. Núi Kê La Sa.
Cõi Uất Đan Việt có mười núi lớn cũng lại như vậy.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem trong mười ngọn núi lớn lại có những sông, ao, dòng nước, hoa quả, chim thú nào?
Dùng văn tuệ hay Thiên Nhãn, vị ấy thấy trong núi Tăng Ca Xa, có cây Tăng Ca Xa hoa nở suốt sáu thời. Ánh sáng nơi cây ấy ngày đêm không mất, giống như lửa của ngọn đuốc lớn. Mùi hương của cây tỏa khắp một do tuần. Cây cối hiện có nơi cõi Diêm Phù Đề chỉ giống nó một phần nhỏ.
Như vậy, núi Tăng ca xa có bốn rừng lớn:
1. Rừng Thanh Ảnh.
2. Rừng Điểu Âm.
3. Rừng Hàm Tỳ La.
4. Rừng Ôn Lương.
Nếu đến rừng này thì hoa như mây từ trên hư không rơi xuống, hòa hợp tụ tập, nên gọi là núi Tăng Ca Xa Tăng Ca Xa nghĩa là tụ tập.
Rừng Thanh ảnh là tùy theo tất cả những loài chim màu trắng hiện có sống ở đấy, do năng lực của rừng này nên các loài chim giống như màu lưu ly, vì thế gọi là rừng Thanh Ảnh.
Rừng Điểu âm là rừng mà người nào vào đấy thì như những điều suy nghĩ, chim liền hót lên âm thanh vi diệu. Người Cõi Uất Đan Việt trông thấy đều phát sinh hoan hỷ, nên gọi là rừng Điểu Âm.
Rừng Ôn lương là rừng mà người nào bị lạnh đi vào rừng ấy thì sẽ cảm thấy ấm áp. Còn người nào bị nóng, vào rừng này thì sẽ mát mẻ. Trong rừng có loài chim bay theo gió, đấy là chim mạng mạng. Do sức mạnh của chim nên trong một niệm có thể đi một ngàn do tuần.
Người nào nhìn thấy chim ấy mà muốn đi thì lúc cỡi chim này, trong một niệm, có thể đi được một ngàn do tuần. Chim mạng mạng này có thể hiểu được tiếng nói của loài người trong bốn cõi thiên hạ, cũng có thể nói được, thọ hưởng dục lạc, tham đắm dục lạc như con người. Hai cánh chim được trang sức bằng thanh bảo, thân thể chim thì dùng pha lê, xa cừ, báu xích liên hoa để tạo sự trang nghiêm, người trông thấy đều vui vẻ.
Xem xét núi Tăng Ca Xa có rừng thứ hai gọi là Anh Vũ. Chim rừng Hoan Hỷ, có ao hoa sen, nước suối vọt lên che khắp ở trên. Nếu ngỗng chúa ở cõi Diêm Phù Đề bị nóng sốt chết thì sẽ sinh lại trong ao này, như ngỗng chúa cõi Diêm Phù Đề ở trong ao A Na Bà Đạt Đa.
Các giống chim ở trong rừng này như Ngỗng, Vịt, Uyên Ương, Giao Thanh, Chim Hằng Đồ Ma Na Bà, Hoàng Điểu, Cưu Cáp, Chim Truân Đầu Hê, Hương Điểu, Chim Tam Bà Xà, Các Chim Cù Da Sa Tra, Thanh Hoan Hỷ, Lục Thời Hành, Hỷ Nguyệt Minh, Nguyệt Xuất Hoan Hỷ, Nhật Sắc Khổng Tước…
Nếu khi thấy sấm thì phát ra âm thanh, Chim Sinh Lạc, Thiểu Hoàng Sắc, Câu La Bà, Na Đề Bối, Nê Quân Luân Đà, Đà Bà Ca, Tạp Thân, Chúng Phong Toàn… tiếng hót của các loài chim này vang khắp đến một do tuần, giống như ong trong rừng cây ở cõi Diêm Phù Đề.
Lại có Ô Điểu, chIm Sơn Vũ, Đệ Nhất Âm, Khê Điểu, Chim Bà La La, Hoa Phú Thân, Trụ Liên Hoa, Thanh Ưu Bát La, Già Sa, Tần Già Hạn, Bàn Chu Tra, Nhạo Sa La, thường âm thanh, không hầu âm, kiến vân hoan hỷ, tăng ca ma, kiến đấu hoan hỷ, bạch vân… còn có những loại chim khác trông rất đáng ưa.
Chim ly sân nhuế sống ở trong rừng cây, người Cõi Uất Đan Việt trông thấy đều vui vẻ. Quan sát các loài chim sống ở trong rừng rồi, vị ấy biết rõ ràng về ngoại thân.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân, xem núi Tăng già xa có những cánh rừng nào?
Dùng văn tuệ hay Thiên Nhãn, vị ấy thấy khu rừng thứ ba tên Hàm Tỳ La, cây lá chen nhau, bóng râm mát mẻ dày đặc. Người Cõi Uất Đan Việt vào rừng ấy để vui chơi.
Rừng có cây Ban Diệp, tiếp theo là cây Long Hoa, cây Am Bà La, cây Câu Bi Đà La, cây Ta La, cây Hỷ Ái, cây Điểu Tức, cây Bà La Đa La, cây Xa Ma, cây Ni Sa Ca Tỳ Đà, cây Chu Đa, cây Ca La, cây Tỳ La Ca, cây Kỳ Lân Đà, cây Bà Cưu La, cây Hỷ Hương, cây Kiêu Lạc, cây Hề Đa La, cây Đa Ma La, cây Cưu La Ca, cây Thanh Hình Hương.
Cây Nguyệt Luân, cây Diệu Hạnh, cây Thường Khai Phu, cây Ni Quân Luân, cây Khai, cây A Thấp Ba Tha, cây Chân Thúc Ca, cây Xa Ma Lê, cây Dương Liễu, cây Tỳ La, cây Ca Tỳ, cây Na Lê Chi La, cây Ba Na Sa, cây Vô Giá Quả, cây A Thù Na Hoa, cây Ca Đàm Bà La, cây Nê Chu La.
Cây Thiên Mộc Hương, cây Thừa Nhiếp, hoa cây Thủy Sinh, hoa cây Mạn Đà La, hoa cây Câu Xa Da Xá, hoa Kim Sắc, hoa Ngân Sắc, cây Tỳ Lưu Ly, cây Khổng Tước Chỉ Tức, cây Dị Xứ Hành, cây Châu Sinh, cây Ca Ly Xa Hợp, cây Bà Xa Ca, cây Hổ Tương Ánh Hậu, cây Hoạt, cây Kiên Sinh, cây Nhân Đà La Trường, cây Ngạn Sinh.
Cây Hạn Sinh, cây San Hô Sắc, cây Cưu Ma Tu, cây Tùng, cây Ứng Thời Sinh, cây Yên Sắc, cây Đang Minh, cây Phong Động, cây Ba Tiêu, cây Câu Sí Da Lạc, cây Tán Hoa, cây Hoa Vị Phú, cây Khai Ô Di La, cây Ức Niệm, cây Như Phạn, cây Ưu Đàm Bát La, cây Đầu Đầu Ma, cây Phong Toàn, cây Phụ Phong, cây Lương Phong, cây Động Diêu, cây Vô Ưu, có sáu mươi giống cây như vậy.
Hơn những cây kể trên, còn có những cây khác không thể kể hết. Vùng giữa, dưới rừng Hàm Tỳ La còn có dòng suối, ao hoa, rất đáng ưa thích. Người Cõi Uất Đan Việt không có sợ hãi, ưu sầu và bệnh khổ, không có Vua, cũng không có những sự bức bách, khổ não, xa lìa oán đối, ganh ghét, ở nơi núi Tăng Ca Xa, rừng Hàm Tỳ La Hoan Hỷ Thọ Lạc.
Quan sát núi Tăng ca xa rồi, vị ấy nhận biết về ngoại thân rõ ràng.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân, xem cảnh rừng thứ tư ở núi Tăng Ca Xa thuộc Cõi Uất Đan Việt có tên là Ôn Lương. Dùng văn tuệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy các loại ao nước mát ở rừng Ôn Lương như trên đã nói. Hoa lá, cây trái, sông suối đầy đủ.
Đó là sông Thanh Lương rộng một do tuần, nước sông rất sâu. Một sông khác tên sông Thanh Tịnh, tiếp nữa là sông Vô Trọc, sông Nhũ Thủy, sông Phô Đào Trấp, sông Tô Ma, sông Mỹ Nhũ Nê Bạch Thủy, sông Ức Niệm, sông Nga Vương, sông Áp, sông Uyên Ương, sông Diệu Âm Thanh, sông Hoa Lưu, sông Nhược Dương, sông Đào Ba Lưu.
Sông Quyết Lưu Thủy Lạc, sông Ca Đàm Bà Sí, sông Thù Chủy, sông Nhiêu Quy, sông Xích Ngư Toàn Hành, sông Quân Tỳ La, sông Ngư Toàn, sông Hoa Lưu, sông Mạt Luân, sông Thủy Tiếu, sông Bình Ngạn, sông Vũ Thanh, sông Âm Khúc Lưu, sông Tùy Thời Chuyển, sông Vô Lực, sông Sơn Phong, sông Kim Sắc Thủy, sông Ngân Sắc Thủy, sông Ngân Thạch.
Sông Chân Châu Sa, sông Sơn Lưu, sông Vân Chuyển, sông Xa Cừ Trang Nghiêm, sông San Hô Thọ, sông Xuân Hoan Hỷ, sông Thu Thanh Thủy, sông Sơn Cốc Lưu, sông Phong Luân Tiếu, sông Tuyết Thủy, sông Nhật Bất Chiếu, sông Tốc Lưu, sông Hồi Phục, sông Ni Quân Đà Lưu.
Sông Hương Thủy, sông Khê Đa Ca Hương Huân, sông Vũ Hoan Hỷ, sông Truân Đầu Ma, sông Chu Biến Toàn Chuyển, sông Vô Lượng Lưu, sông Tán Thủy Kiêu Ngạn, sông Bà Cưu La, sông Giảm Thủy, sông Hoan Hỷ Toàn Lưu, sông Hoại Sơn, sông Vận Hành, sông Ca Âm, sông Cổ Âm, sông Lôi Âm, sông Long Nữ Hỷ Lạc, sông Dạ Xoa Sở Ái, sông Tiên Nhân Sở Ái.
Đó là cánh rừng thứ tư tên Ôn Lương, thuộc núi Tăng Ca Xa, có đến bảy mươi dòng sông lớn như vậy, không kể những sông khác là vô số sông nhỏ. Rừng cây, hoa trái, mọi công đức đầy đủ. Quan sát sông Thanh Lương rồi, vị ấy biết rõ ràng về ngoại thân.
Phần thứ năm của núi Tăng Ca Xa tên là Chấn Lôi Vân Mạn Long Du Hý Vân Mạn. Đó là Long Vương Ly Sân Bà Tu Cát, Long Vương Đức Xoa Ca, Xỉ Độc Long chiếu ra ánh chớp sáng lớn, nổi mây phủ khắp nơi, tùy thuận thực hành theo chánh pháp. Có bảy ngàn rồng lớn như vậy ở cõi Uất Đan Việt, theo mùa làm mưa thấm nhuần cả đất bằng. Người Cõi Uất Đan Việt giống như Chư Thiên.
Lại nữa, người tu hành quán thân theo ngoại thân, như đã nói ở trước, hoặc cây, hoặc hoa, hoặc trái, hoặc quả, hoặc sông, hoặc hang đá, hoặc chỗ ở, hoặc bãi cỏ.
Hoặc thung lũng trong núi, hoặc hang núi… những nơi chốn như vậy không biết bao nhiêu là chỗ ở của chúng sinh, không nơi nào là không sinh, không chết, không lùi lại, không hiện ra, quanh quẩn hàng trăm ngàn lần tất cả những ái lạc. Các loài chúng sinh đều bị hủy hoại, ân ái chia lìa, tâm não loạn, hối tiếc.
Ở đời ai cũng có kẻ oán, người thân, vô số nơi sinh, trăm lần sinh, ngàn lần sinh, hoặc là sinh trong nước, hoặc sinh trên đất liền, hoặc đi trong hư không. Nơi loài súc sinh, không một chúng sinh nào là không nhai nuốt lẫn nhau, không tàn hại lẫn nhau, không một chúng sinh nào là không kết oán. Như thân này của ta, đã từng sinh ra khắp nơi.
Như vậy, này Tỳ Kheo! Không thấy một vùng đất nhỏ như cây kim nào chẳng phải là chỗ ta đã từng sống chết, như trước đã nói. Quan sát núi Tăng Ca xa rồi, vị ấy nhận biết về ngoại thân rõ ràng.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân, xem có những núi rừng thù thắng, vi diệu nào?
Dùng văn tuệ hay Thiên Nhãn, vị ấy thấy ngọn núi thứ hai tên là Bình Đẳng Phong, giống như vườn Hoan Hỷ trên Cõi Trời. Rừng cây, hoa trái và ao hồ, sông suối ở núi Bình Đẳng Phong giống như trong núi Tăng Ca Xa.
Nói rõ hơn, núi này lại có những sự thù thắng nào nữa?
Núi Bình đẳng phong có ba trăm đỉnh núi vàng, sáng chói như Mặt Trời, năm trăm đỉnh núi bạc, như trước đã nói, công đức lớn hơn núi trước.
Người Cõi Uất Đan Việt thân thể sáng chói, giống như Trăng tròn, xa lìa sự sợ hãi, đích thực họ không còn sợ hãi nên gọi là không sợ hãi. Người Cõi Uất Đan Việt sống trong núi này vui vẻ thọ lạc giống như Trời Tứ Thiên Vương.
Vào bốn tháng mùa hạ, ở nơi vườn Hoan Hỷ thọ hưởng năm thứ dục lạc, ở đây có những sự thù thắng nào?
Trời Tứ Thiên Vương không có xương, không có thịt, không có mồ hôi bẩn. Người Cõi Uất Đan Việt không thể sánh bằng, nhưng người Cõi Uất Đan Việt xa lìa sự sợ hãi, hơn hẳn Tứ Thiên Vương. Trời Tứ Thiên Vương sống trong cung điện trên đỉnh núi cao còn ôm lòng sợ hãi.
Người Cõi Uất Đan Việt không có cung điện, nhà cửa, không có chấp ngã, ngã sở cho nên không có sợ hãi. Người cõi Uất Đan Việt khi chết được sinh lên cõi trên, vì thế không có sợ hãi. Trời Tứ Thiên Vương không được như vậy. Người Cõi Uất Đan Việt lại có những thắng pháp xa lìa sợ hãi, hơn hẳn Tứ Thiên Vương. Cây cối rừng rậm hiếm có trong núi bình đẳng phong như Mặt Trời thứ hai xa lìa sự sợ hãi nơi con người.
Tùy theo ý nghĩ muốn gì thì từ trong cây đều hiện ra. Áo không có sớ vải, chuỗi anh lạc trang nghiêm. Hoặc nghĩ đến thức ăn thì trăm ngàn sông thức ăn, thức uống chảy tràn. Tiếng chim hót đáng yêu như trước đã nói. Vô số trăm ngàn ngỗng, vịt, uyên ương cánh bằng vàng, Tỳ Lưu Ly xanh.
Vô số loài nai thân bằng vàng ròng, sừng bằng san hô, mắt bằng xa cừ, móng vuốt bằng ngọc xanh và vô số giống thú khác sống trong núi, cành cây che mát, mọc xen lẫn nhau như lưới chân châu. Chim Câu Sí La, âm thanh vi diệu của Khổng Tước, trăm ngàn dòng nước, vô số bờ sông tạo muôn vẻ trang nghiêm cho núi này.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh A Luyện Nhã
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Hiệt Tuệ
Phật Thuyết Kinh Văn Thù Sư Lợi Hỏi Về Trí Tuệ Siêu Việt Của Bồ Tát - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Thứ Mười Một - Pháp Hội Xuất Hiện Quang Minh - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Mười Bốn - Phật Thuyết Kinh Vua Tát Hòa đàn