Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Bốn Mươi Bốn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy

PHẬT THUYẾT

KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy  

PHẨM SÁU

PHẨM QUÁN THIÊN

DẠ MA THIÊN  

TẬP BỐN MƯƠI BỐN  

Khi ấy Đức Phật Ca Diếp nói kệ:

Lìa tọa thiền, đọc tụng

Thường ưa thích xem tướng

Người ấy bỏ pháp lành

Không thể đắc Niết Bàn.

Nếu xả bỏ việc mình

Mà ưa thích việc người

Hai pháp ấy hoại mất

Sẽ đi vào đường ác.

Người nào bỏ nhà mình

Mà ưa thích nhà người

Sẽ bị người chê cười

Mau chóng bị bần cùng.

Ý ngu ác như vậy

Tự cho mình hơn hết

Xả bỏ pháp của mình

Để tu tập pháp khác.

Xuất gia mà tà mạng

Mất pháp mất danh xưng

Bị người khinh như cỏ

Vị lai đọa đường ác.

Xả bỏ pháp tịch tĩnh

Mà thực hành nghiệp ác

Người ấy không bao lâu

Do đây mất Phật Pháp.

Tâm mong mỏi lìa dục

Không mong cầu gì khác

Siêng năng và biết đủ

Như vậy là hành thiền.

Nếu tâm thích dục lạc

Thường tham ăn và uống

Là giặc đắp Ca Sa

Không gọi là Tỳ Kheo.

Nếu Tỳ Kheo nói tướng

Thường tư duy sao hạn

Gần Vua, sống phóng dật

Chẳng thích hợp Tỳ Kheo.

Làm thầy thuốc thợ vẽ

Nghe pháp ác tán, vịnh

Sống chung với người ác

Liền mất pháp Tỳ Kheo.

Ghét ngồi thiền, đọc tụng

Ưa thích việc nói nhiều

Ham của cải cúng dường

Liền mất pháp Tỳ Kheo.

Tìm cầu các vật báu

Ưa thích hiểu biết nhiều

Lại tham của cải khác

Thoái thất pháp Tỳ Kheo.

Chỉ tham đồ ăn uống

Ngã mạn không hỏi người

Mong được người ca ngợi

Đánh mất pháp Tỳ Kheo.

Nếu không gần tất cả

Lìa bỏ chúng ác độc

Ăn rau cỏ đạm bạc

Là Tỳ Kheo chân thật.

Đạt các cảnh giới rồi

Bỏ chúng như bỏ lửa

Trừ bỏ lỗi ngã mạn

Là Tỳ Kheo chân thật.

Trong ngoài đều tịch tĩnh

Ánh sáng trí trang nghiêm

Y trì giới che thân

Là Tỳ Kheo chân thật.

Lìa bỏ pháp thế gian

Như Tu Di không động

Thương tất cả thế gian

Là Tỳ Kheo chân thật.

Ở trong thành ba đêm

Nơi đông người đều vậy

Chỉ ở trong hang núi

Là Tỳ Kheo giải thoát.

Sợ ác không gần người

Hạnh chánh tâm không động

Trí xét kỹ vắng lặng

Là Tỳ Kheo độc hành.

Không đọa thường ái ngữ

Lìa bỏ bạn bè ác

Không thích làm lăng xăng

Là Tỳ Kheo giải thoát.

Tỳ Kheo ấy như vậy

Được thoát khỏi các cõi

Biết thế gian, Niết Bàn

Tâm bình không mong cầu.

Tâm thường ưa trí tuệ

Và do khéo tịch tĩnh

Nên thoát nỗi lo sợ

Là sinh lão bệnh tử.

Tỳ Kheo này đắc A La Hán, nếu không như vậy thì chỉ có tên là Tỳ Kheo vì tự làm ngăn ngại, rơi xuống bờ hiểm. Pháp thứ sáu này gây chướng ngại như vậy, nếu là Sa Môn lành thì không nên làm.

Lại nữa, Sa Môn nào thật là Sa Môn thì không nên phạm pháp thứ bảy.

Pháp thứ bảy là gì?

Đó là chỉ chuyên ăn uống đầy bụng. Việc này gây ra nhiều tham, sân khiến xả bỏ tất cả việc tọa thiền, đọc tụng, chỉ ngồi không trên giường lớn mà thôi, thọ dụng một cách uổng phí đồ đạc, giường nằm, tọa cụ, thuốc trị bệnh thuộc về Chúng Tăng.

Lúc ở nhà, người này bê trễ, biếng nhác, sợ phải làm việc cho nên xuất gia, người này chỉ tham mùi vị thức ăn, thường tìm đến nơi hội hè để tìm xin đồ ăn uống hoặc cảnh giới vui.

Tỳ Kheo này là Tỳ Kheo tuy sống mà coi như đã chết, tuy được gọi là Tỳ Kheo nhưng không thể tọa thiền, đọc tụng Kinh Luật, phá hủy tịnh giới. Những người khác khi chết chỉ bỏ xác thân còn Tỳ Kheo hủy giới thì phá hủy tất cả pháp lành.

Tỳ Kheo này chỉ hay ngồi trên giường, tâm sinh kiêu mạn, tự cho là tốt, chỉ là Tỳ Kheo trên hình dáng và y phục mà thôi. Người ấy thực chất không có giới, lìa bỏ giới chân chánh.

Điều được gọi là giới đó là tâm giới thì người này không thể thọ trì, không thể làm theo.

Giới có bảy loại.

Những gì là bảy?

Đó là khẩu giới. Tỳ Kheo giữ khẩu giới không nói chuyện với Tỳ Kheo hoặc người đời trừ khi có pháp sự.

Trừ lúc khất thực, Tỳ Kheo giữ giới không nói chuyện với phụ nữ, hoặc chú nguyện rằng: Cầu cho cô được an lạc, được Niếtbàn.

Khi gặp mẹ hay chị em gái, Tỳ Kheo này chỉ dòm chân họ, chớ không dòm mặt, y phục và đồ trang sức.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Ca Diếp nói kệ:

Tay rờ hoặc gió thổi

Lửa này đốt rất chậm

Thấy phụ nữ lửa phát

Đốt liền không đợi lâu.

Vì vậy Tỳ Kheo nào sợ bị lửa dục thiêu thì không được nói chuyện với tất cả các phụ nữ. Đó là giới thứ nhất.

Lại nữa, giới thứ hai là không gần gũi bạn ác, không ở lâu tại một chỗ, không nhận nhiều tài lợi, xả bỏ đồ cúng dường dư thừa, không bỏ người bệnh, không gặp vợ con, chỗ nào có nhiều lợi dưỡng liền bỏ mà đi vì sợ sinh tâm tham, lìa bỏ không ở cùng chỗ với người phá giới.

Bảy loại như vậy Tỳ Kheo ấy không giữ gìn, chỉ tham ăn uống, nếu thấy hoặc nghe đến của cải hoặc đồ cúng dường của người khác liền sinh buồn rầu và nghĩ như vậy: Nay ta phải làm gì để được các lợi dưỡng ấy.

Tư duy như vậy, tâm họ liền sinh tham đắm, tâm cấu uế như vậy làm tâm tham sinh trưởng.

Sa Môn ác ấy hủy hoại tất cả pháp lành, ngày đêm thường buồn không được yên ổn. Tỳ Kheo ấy, thấy các Tỳ Kheo trì giới khéo thực hành.

Được người khác cúng dường liền sinh lòng ganh ghét tham lam và liền đi đến nhà người Đàn việt, cải trang hình dáng, y phục, ít nói và đi từ từ, tâm không yên tĩnh nhưng bên ngoài trá hiện oai nghi và tướng yên tĩnh, thân mặc y vá, lại kết bạn cùng với nhiều người không trì giới, chỉ có tiếng rỗng, thực hành pháp ác. Họ cùng bạn bè theo nhau đến nhà Đàn việt hiện tướng trì giới như vậy tùy theo chỗ toan tính của tâm.

Người Đàn việt ấy cho rằng Tỳ Kheo này là người giữ giới mới nghĩ: Những Tỳ Kheo này giữ giới bậc nhất. Các Tỳ Kheo ác trá hiện tướng trì giới này khiến người Đàn việt sinh tâm tin tưởng kính trọng rồi cùng với bè bạn thường đến nhà người Đàn việt.

Tỳ Kheo này, tùy theo chỗ hiểu biết ít nhiều về Phật Pháp của mình, cùng với bè bạn nói pháp mà mình biết cho Đàn việt ấy.

Với phương tiện như vậy, họ làm cho Đàn việt đem những lợi nhuận của mình cho các Tỳ Kheo ấy.

Tỳ Kheo như vậy, tuy hình tướng là Sa Môn nhưng thật ra là kẻ cướp lớn nhất, đến nhà Đàn việt tạo phương tiện để đoạt của cải nơi người khác dưới hình thức nhận cúng dường. Tỳ Kheo này thấy của cải của người khác, thấy đồ cúng dường của người khác liền sinh tham lam, ganh ghét chưa từng tạo pháp lành trong khoảnh thời gian nháy mắt.

Tỳ Kheo ác phá giới này xả bỏ việc tọa thiền, đọc tụng, chưa từng có một niệm nào không thuộc về địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Lại nữa, do tâm lừa dối, Tỳ Kheo ấy cùng với bạn bè của mình, nói lỗi xấu của Tỳ Kheo trì giới với nhà Đàn việt đã quen biết, hoặc do tâm ghen ghét nói rằng các vị kia phá giới, hoặc do tâm ganh ghét nói rằng các vị kia dốt nát, hoặc nói về hành tướng của các vị ấy với tâm ganh ghét.

Tỳ Kheo ấy nói với Đàn Việt: Thầy của các ông hủy phá giới cấm, hoặc nói là biếng nhác, không nghe, không trí, ngu si như chim, ít nghe, ít trí tuệ.

Tỳ Kheo ác này nói xấu như vậy với Đàn Việt, thường gần gũi, quen thuộc với cảnh giới phi pháp, làm sao có thể tu thiền, đọc tụng?

Người ấy trống rỗng, không chắc, không thật, khi chết bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục.

Khi ấy, Đức Thế Tôn Ca Diếp Như Lai nói kệ:

Người nói lời vọng ngữ

Gây hại cho chúng sinh

Người ấy như bóng tối

Tuy sống mà như chết.

Nói tựa dao cắt lưỡi

Làm sao lưỡi không rơi

Ai nói lời vọng ngữ

Mất công đức chân thật.

Người nào nói vọng ngữ

Trong miệng có rắn độc

Dao nằm ở trong miệng

Lửa hừng cháy trong miệng.

Độc trong miệng mới độc

Nọc độc rắn không bằng

Miệng độc hại chúng sinh

Khi chết đọa địa ngục.

Ai nói lời vọng ngữ

Mủ từ miệng chảy ra

Lưỡi liền thành bùn nhơ

Lưỡi cũng như lửa hừng.

Dây trói này như vậy

Đẩy ta vào địa ngục

Cầu pháp bị phá hoại

Đều do lỗi vọng ngữ.

Người nói vọng ngữ ấy

Thì chẳng còn cha mẹ

Cũng không thể giữ giới

Đọa vào trong đường ác.

Người nào nói vọng ngữ

Liền bị người khinh rẻ

Bị người thiện tránh xa

Chư Thiên không hộ trì.

Ai không giữ lời nói

Dễ có nhiều sân hận

Tâm ai ưa nói nhiều

Sẽ thường chịu khổ não.

Thường ganh ghét người khác

Cùng với chúng sinh ác

Tìm cách gây rối người

Do đó đọa địa ngục.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần