Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Hai Mươi Mốt

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy

PHẬT THUYẾT

KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy  

PHẨM SÁU

PHẨM QUÁN THIÊN

DẠ MA THIÊN  

TẬP HAI MƯƠI MỐT  

Bấy giờ, tất cả Chư Thiên ở nơi ấy đều hòa hợp với nhau.

Thiên Vương Dạ Ma nói kệ cho họ nghe:

Các cảnh giới thế gian

Năng lực nghiệp khác nhau

Nhiều đường đến Cõi Trời

Nhưng đều bằng nghiệp thiện.

Trong đó đến như vậy

Trong đó đi như vậy

Như nghiệp đến thế nào

Thì đi cũng như thế.

Việc các hữu hòa hợp

Ý các hữu không loạn

Đều do làm việc lành

Tinh tấn không phóng dật.

Cứ mải miết thọ lạc

Sau nhất định thoái chuyển

Thoái chuyển là khổ nhất

Sẽ luân hồi không nghi.

Nghĩa của nó như vậy

Ta sẽ nói cho ông

Tất cả nên lắng nghe

Như lời Như Lai dạy.

Sau khi tạo lợi ích một cách rộng rãi cho tất cả Chư Thiên hòa hợp như vậy rồi, Thiên Vương Dạ Ma nói kệ này và bảo Thiên Chúng: Các ông bị cảnh giới làm mê hoặc mà không hay, không biết, như vậy Thiên Chúng sẽ giảm đi không tăng trưởng. Tất cả thú vui của cảnh giới này đều vô thường, nên không tịch tĩnh, không được lợi ích.

Vì sao?

Tất cả hãy lắng nghe, như các ông đã thấy: Tháp miếu bằng bảy báu của sáu bậc chánh giác được trang nghiêm bằng bảy báu.

Sáu tháp đó là:

1. Tháp của Thi Khí Chánh Giác Tri.

2. Tháp của Tỳ Bà Thi Chánh Giác Tri.

3. Tháp của Tỳ Xá Bà Chánh Giác Tri.

4. Tháp của Như Lai Ca Na Ca Mâu Ni Chánh Giác Tri.

5. Tháp của Phật Ca La Ca Cư Thôn Đà Chánh Giác Tri.

6. Tháp của Phật Ca Diếp Chánh Giác Tri.

Sáu tháp Phật này nơi Cõi Trời đã tạo từ lâu, chính ta lần lượt nghe như vậy nên nay ta cúng dường. Do nhân duyên gì tạo nên tất cả sự việc như vậy, ta chưa từng thấy vì tâm ý hạn hẹp của mình. Các Đức Thế Tôn ấy, tạo lợi ích an lạc các thế gian, xưa kia đã từng đến thế gian này. Do được nghe theo thứ lớp như vậy ta đạt được các pháp như vậy.

Phật Ca la ca Cư thôn đà ấy tạo lợi ích lớn cho Trời Dạ Ma, đó là hóa ra một tháp Phật, là cảnh giới rất hiếm có của Như Lai khiến an trụ ở cảnh giới này.

Nếu Thế Giới này không cung kính Sa Môn, Bà La Môn, thì bạn của Chư Thiên bị suy giảm. Tướng suy giảm ấy, ngay trong ánh sáng của tháp Phật, ta đều thấy rõ ràng. Hoặc giảm bớt, hoặc thoái lui chỉ một mình ta biết. Các ông ham thích phóng dật nên không thấy.

Đó là do các ông đắm mê cảnh giới và ham thọ hưởng dục lạc. Ta dùng tiếng ca triệu các ông đến để tạo lợi ích cho các ông. Các ông phóng dật, tạo hạnh phóng dật tức là thoái lui về chỗ chết. Ta sợ các ông dùng hết nghiệp thiện, bị đọa vào đường ác nên triệu các ông lại đây.

Những kinh mà sáu vị Phật Thế Tôn đã nói, tạo lợi ích cho vô lượng các chúng sinh, các vị Như Lai ấy đều viết nó ở trong tháp miếu, ta đã đọc tụng được. Nay Chư Thiên hãy nghe cho kỹ, ta sẽ nói cho các ông đừng để sau này bị thoái chuyển mà sinh tâm hối tiếc.

Bấy giờ, đám Thiên Chúng ấy vô cùng kính trọng, chuyên tâm suy nghĩ.

Tất cả yên lặng cung kính đối với hai thứ: Một là kính Thiên Vương, hai là kính trọng pháp. Các vị ấy hết sức chú ý, chánh niệm bất động.

Thiên Vương thấy Thiên Chúng khéo điều phục như vậy mới bảo họ: Các ông vừa mới vào tháp của Đức Như Lai thứ nhất.

Kinh chép trên vách tháp của Như Lai Thi khí tạo lợi ích, đem lại an lạc cho Thiên Chúng.

Các vị Thiên tối thắng ấy cùng với Thiên Vương Mâu Tu Lâu Đà lần đầu vào tháp thấy tượng Phật Thi khí sáng rực như lưu ly, đang ngồi kiết già trên tòa báu màu xanh.

Ở trên vách ấy có chép kinh: Các Tỳ Kheo, hoặc Trời, hoặc người, có tám pháp làm chướng ngại pháp thiện.

Những gì là tám?

Này các Tỳ Kheo. Thứ nhất là hoặc Trời, hoặc người bị phóng dật làm hư hoại không thể làm điều thiện, hoặc là điều thiện thế gian, hoặc là điều thiện xuất thế gian.

Pháp thế gian hoặc tâm biếng nhác, hoặc tâm phóng dật, thực hành phóng dật, tất cả pháp thế gian ấy đều hư hoại.

Nếu người phóng dật đối với bạn lành không có thể thấy, cho là người tầm thường. Nếu là oan gia thì oán hận sẽ tăng trưởng. Tìm cầu chỗ sơ hở, đó là phóng dật, làm chướng ngại pháp thế gian. Các hữu tình biếng nhác làm việc phóng dật, không thể thành tựu nghiệp thiện.

Nghiệp thiện nơi người ấy hết, bạn lành thì hết, oan gia thì thêm rất nhiều, bạo lực tăng trưởng, nhà cửa đều mất, nghèo nàn không còn gì, bị người khinh chê, coi rẻ. Việc hèn hạ nhất là nghèo nàn, các hữu tình nghèo nàn thì ít bạn lành, hiểu biết, cũng ít anh em, thân thuộc, chỉ có tham, sân, tà kiến tất cả đều tăng trưởng.

Người ngu si ấy là hèn hạ nhất.

Vì sao?

Đó là do không làm việc thiện, Chư Thiên không hộ trì, bị tất cả mọi người bức bách, khiến hoặc có lúc đến chết, hoặc có lúc mua bán mất hết của cải do phóng dật. Nếu các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di phóng dật như vậy, dù có siêng năng tu hành nhưng không thể đắc thiền định, không diệt hết lậu hoặc, chỉ tham mùi vị nơi thức ăn, chỉ nghĩ đến lúc ăn làm rối loạn tâm.

Người sống phóng dật như vậy, trong mọi thời, tâm không thanh tịnh, tham đắm mùi vị nơi thức ăn, giống như súc sinh ăn thức ăn của người ta mửa ra. Tâm họ như chó, cũng như người giữ giới chó, quạ.

Hạng người như vậy thường sống phóng dật, không đọc tụng Kinh Điển. Ở trong quyến thuộc, ở giữa những người đa văn, họ là người ngu dốt, là người hèn hạ, bị các tín thí khinh chê, luôn sợ hãi. Sự không sợ hãi thứ nhất là đa văn, hay tư duy chánh pháp. Sự hèn hạ nhất là ngu si ít học.

Người ngu si ít học ấy bị mọi người khinh khi, không biết lỗi mình mà còn tham, sân, si nhiều với người khác, đối với người đa văn, người hiểu biết chân thật, hoặc đối với bậc tôn trưởng, đối với thí chủ, người có căn lành, do ngu si và phóng dật, người ấy sinh tâm sân hận, làm tổn thương.

Do nghiệp bất thiện, khi qua đời họ bị đọa vào đường ác, sinh trong địa ngục. Người sống phóng dật như vậy, do làm việc phóng dật nên gây chướng ngại đối với ý nghĩa thế gian và ý nghĩa xuất thế gian.

Này các Tỳ Kheo! Vì sao Chư Thiên phóng dật phá hoại Cõi Trời này?

Do từ tính hành phóng dật, các vị Thiên sống buông lung, ham thích tiếp xúc với mùi vị, sắc đẹp, hương thơm mà không thấy già sắp đến, không thấy sự tan hoại, sự chìm đắm, tâm không nghĩ đến nghiệp lành bị diệt hết, không tu tập theo chánh pháp, không kính trọng Phật, Pháp, Tăng.

Những người ấy xa lìa tâm lành, sống buông lung. Lúc Phật xuất thế họ không thấy, không biết, không sinh tâm tin tưởng, gần kề với sự sợ hãi, sự kém phước, sự khổ vì chết chóc, sự khổ vì ly biệt.

Họ bị Thiên Nữ lìa bỏ và bị sự sợ hãi đến gần. Họ giống như người ở nơi bờ cao nguy hiểm mà bị rơi xuống không còn gặp lại đầy đủ các việc vui đã thọ hưởng trong cảnh giới trước đây. Ở trong đời khác, họ không có hạnh tùy thuận. Lúc sắp chết, họ không vui vẻ cũng không yên ổn. Cảnh giới như vậy đều bị hủy hoại, không còn khí thế, khi đi đến các nơi khác nhau ở trong các hữu thì nó không thể đi theo.

Nếu làm việc phóng dật, do nghiệp phóng dật, họ phải đi theo các nghiệp cho đến tận cùng cảnh giới ấy, tâm họ chưa biết chán, phóng dật đến chết, bị tất cả Chư Thiên bỏ rơi, tâm sinh kinh sợ, mê muội nơi cảnh giới như vậy đến chết. Lúc ấy, tùy theo tâm tương ứng, người đó sinh vào ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Cho nên tất cả hàng Trời, người không nên hành động phóng dật.

Vào thời ấy, Như Lai Thi khí nói kệ như vậy:

Chư Thiên trong mọi lúc

Thọ hưởng cảnh giới vui

Nếu thiên ấy phá hoại

Phải đi theo các nghiệp.

Niềm vui không thường còn

Nghiệp tụ tập không mất

Vui làm Trời si mê

Do nghiệp không tự tại.

Vui trong cảnh hiện tại

Sau này phải chịu khổ

Đắm nhiễm cảnh giới thiên

Tâm thường loạn không định.

Không biết nghiệp phước thiện

Là thuốc trừ sinh tử

Cũng như thuốc đèn sáng

Cứu giúp cho trở về.

Nghiệp lành trong các cõi

Luôn theo các chúng sinh

Cho nên người trí sáng

Thường nên siêng, tinh tấn.

Tu phước đức là lành

Bỏ cảnh giới là thiện

Nếu người có mắt trí

Biết lo việc chưa tới.

Trí sáng ngăn sợ hãi

Kẻ ngu sẽ lo sợ

Người trí biết rõ rằng

Tâm suy nghĩ hủy hoại.

Ý thường bị ngu si

Nên ưa thích cảnh giới

Bị cảnh giới mê hoặc

Sau sinh tâm hối tiếc.

Các hữu tình hòa hợp

Trí thường không vẩn đục

Đều tạo nghiệp phước đức

Không phước đức liền khổ.

Thiên Vương Dạ Ma Mâu Tu Lâu Đà nêu rõ cho tất cả Chư Thiên bài kệ viết trên vách mà Đức Như Lai Thi khí đã dạy. Nêu pháp đầu tiên rồi, vị ấy lại lần lượt nói về bảy pháp còn lại.

Vị ấy nói: Ta sẽ giảng nói bảy pháp còn lại cho các ông nghe. Pháp kế tiếp là ngạo mạn không vui, không tỉnh ngộ. Người ngạo mạn không tỉnh ngộ thường làm chướng ngại đối với hàng Trời, người, thường làm ngăn ngại tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian.

Vì sao nói là ngăn ngại ý nghĩa của thế gian và xuất thế gian?

Người ngạo mạn thì tâm ý rối loạn. Ý dẫn đầu ý nghĩa của các pháp cho nên có các hành động theo đó.

Do tâm ý rối loạn, họ làm việc chẳng lành, làm việc không nên làm, làm không đúng thời, làm việc nguy hiểm, gần gũi bạn ác, không tự xét mình và không biết người, không biết sức mình, không biết sức người. Do ngạo mạn họ không thể tạo nghiệp thiện, đối với việc nhà họ không biết tính toán không khác gì người điên. Họ không làm việc chân chánh, giữa mọi người họ là kẻ hèn hạ nhất.

Họ còn là người thấp kém nhất trong số các anh em thân thích. Những điều không nên làm thì họ làm, còn những việc nên làm thì họ không chịu làm. Họ không biết tất cả việc gì nên làm, việc gì không nên làm. Lại cũng không biết làm với không làm, cũng không biết pháp và phi pháp, không biết điều nên nói hay không nên nói, nên làm hay không nên làm, cũng không biết chỗ phải chỗ trái, tất cả như vậy đều không biết.

Do ngạo mạn họ không thể biết pháp trì giới. Lại do ngạo mạn, họ không biết thời, không biết lúc, không biết phương, không biết nơi chốn, không biết trụ tâm và không trụ tâm. Do ngạo mạn họ không biết lúc vui, không biết nặng nhẹ, lại không biết chân thật, không biết không chân thật, trơ mặt mà đi, không biết e sợ.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần