Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Tám - Thập Nhất Diện Quán Thế âm Thần Chú Kinh - Tập Chín
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐÀ LA NI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẦN TÁM
THẬP NHẤT DIỆN
QUÁN THẾ ÂM THẦN CHÚ KINH
TẬP CHÍN
Lại có pháp. Trẻ con khóc đêm, nên dùng Chú này Chú kết sợi dây rồi đeo vào cổ, liền ngưng khóc đêm.
Quán Thế Âm Mẫu Tâm Ấn Chú thứ bốn:
Hợp cổ tay. Kèm dựng hai ngón trỏ, hai ngón giữa, hai ngón vô danh cùng trụ đầu nhau cùng với lóng lớn khiến bằng nhau. Kèm dựng hai ngón cái dính nhau vịn cạnh đầu ngón trỏ. Dựng hai ngón út dính đầu nhau, đưa ngón cái qua lại.
Chú là:
Úm ma ha thất lợi duệ sa ha hai Pháp Ấn Chú lúc trước này, gọi là Quán Thế Âm Mẫu pháp. Nếu có người tụng trì thì hay trứ trắm ức kiết tội nặng trong thân.
Tất cả Bồ Tát nghe chú này đều được Xa Ma Tha Śamatha: Thiền Chỉ. Do nhân duyên này được thành địa vị của Phật. Phật vị, cho nên gọi là Bồ Tát Mẫu Chú.
Có người hay thọ trì, chẳng lâu sẽ được Chư Phật thọ ký.
Tất cả Quán Thế Âm Bồ Tát do Chú Ấn này được Xa Ma Tha Ký.
Trì Nhất Thiết Quán Thế Âm Bồ Tát Tam Muội Ấn Chú thứ năm: Hợp hai cổ tay. Dựng thẳng hai ngón cái, hai ngón út hợp đầu nhau. Dựng thẳng các ngón tay còn lại chẳng dính nhau. Chỉ mở hai ngón cái, ngón út chẳng dính đầu nhau.
Đây gọi là Thập Nhất Diện Ấn, là Đại Tam Muội Ấn, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú dùng Thập Nhất Diện Đại Chú.
Người làm pháp này hay trừ tất cả nhóm nạn: Vua chúa, giặc cướp, nước, lửa, đao, chất độc… đều không có sợ hãi là sức oai thần của Quán Thế Âm.
Muốn thỉnh nhóm pháp của các Bồ Tát. Trước tiên, nên làm Tam Muội Ấn liền được tất cả Bồ Tát vui vẻ.
Quán Thế Âm Bồ Tát Tùy Tâm Ấn Chú thứ sáu: Hai tay đem ba ngón: Giữa, vô danh, út hướng ra ngoài cài chéo nhau rồi chắp tay lại, bên phải đè bên trái, các đầu ngón tay nắm lưng lòng bàn tay. Kèm dựng hai ngón trỏ dính nhau, ngón cái cũng như thế đều nắm ngón trỏ. Đưa ngón cái qua lại quy mạng đồng với nhóm pháp quy mạng của Thập Nhất Diện.
Chú là:
Đá điệt tha úm đa lợi, đa lợi đốt đa lợi đốt lợi sa ha.
Pháp Ấn Chú này. Nếu người muốn được thông minh, đem một con bò màu vàng đến chỗ thanh tịnh, khiến một Đồng Nam trì giữ tám giới vắt lấy sữa bò.
Trải qua ba ngày, sữa bò đã vắt được ngày ngày lại cho con bò ấy uống. Từ ngày thứ bốn đến ngày thứ bảy liền đem sữa vắt được làm Lạc. Sữa đặc, dùng Lạc làm bơ. Lúc Nhật Nguyệt Thực dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới rồi làm Thủy Đàn năm màu rộng bốn khuỷu tay.
Đàn ấy không có cửa. Mặt Đông của Đàn ấy để tòa hoa sen, trên tòa an trí Kê Đô Ma Trí. Mặt Nam để tòa hoa Đô Lá La. Mặt Bắc đề tòa hoa Câu Lỗ Khuất La. Trung ương để tòa hoa Tùy Tâm Quán Thế Âm, mười sáu chén đèn, tám mâm thức ăn uống, đốt hương rải hoa mà cúng dường xong. Lấy món bơ lúc trước chứa đầy trong vật khí bằng đồng đỏ sạch mới. Chú Sư ở ngày này chẳng ăn, tắm gội ba lần, niệm Phật, chẳng được tưởng khác.
Đem chén bơ ấy để ở chính giữa Đàn, khiến đứa bé làm bơ ấy ở bên ngoài nhìn vào mặt trời, mặt trăng, đừng khiến cho đứa bé nhìn thấy việc bên trong Đàn. Chú Sư chẳng được nhìn vào mặt trời, mặt trăng. Nếu thấy mặt trời, mặt trăng thì chẳng được nghiệm. Nếu mặt trời, mặt trăng dần dần sanh trở lại, chí tâm làm Đa Lợi Tâm Ấn, bưng chén bơ ấy, luôn luôn Chú vào bơ. Trong chén bơ ấy có ba loại tướng hiện ra.
Nếu chỉ nóng ấm thì người uống bơ, một ngày tụng được bảy trăm Kệ Kinh.
Nếu hiện ra khói thì người uống bơ, một ngày tụng được bảy trăm Kệ Kinh.
Nếu hiện ra Lửa thì người uống bơ với cho người khác uống, liền rất thông minh, một ngày tụng được một ngàn Kệ Kinh.
Nếu bơ ấy như thường thì cũng hay ghi nhớ nhiều hơn.
Bơ ấy có một lượng, hai lượng, ba lượng, bốn lượng, năm lượng… tùy theo ý đều được.
Lại có Tùy Tâm Quán Thế Âm Ấn thứ bảy. Chẳng thấy Hiệu riêng cũng không có Chú riêng.
Hai tay đều dựng mười ngón tay hợp đầu ngón, hơi để lòng bàn tay trống không, hai cổ tay dính nhau, để ngay trên trái tim Ấn này đồng với Cúng Dường Nhất Thiết Ấn pháp.
Tùy Tâm Quán Thế Âm Kì Nhất Thiết Nguyện Ấn thứ tám:
Tay trái: Co ngón cái hướng về lòng bàn tay, lại co đầu ngón trỏ cách đầu ngón cái khoảng 4, năm phân 4/3cm hay 5/3cm, duỗi hết ba ngón tay từ ngón giữa trở xuống cùng nắm nhau. Đặt Ấn nằm ngang để cạnh Ấn dính trên trái tim, hướng đầu ngón tay về bên phải Chú dùng Chú lúc trước.
Một pháp ấn này. Khi muốn cầu nguyện, trước tiên làm Thủy Đàn dài rộng 4 khuỷu tay, treo các phan, lọng, mọi loại trang nghiêm.
Ở trong Đàn ấy để Tượng Tùy Tâm. Ngay trước mặt tượng ấy bày bốn cái chén thành hàng, trong bốn cái chén ấy đều chứa đựng một vị, vị chứa Thạch Mật, đường cát, sữa, mật. Như thứ tự ấy đều chứa đầy để cúng dường. Rải mọi loại hoa, đốt Trầm Thủy Hương cúng dường Tượng xong, đối trước Tượng chí tâm tỏ bày sám hối.
Tùy theo điều đã nguyện, ngưỡng cầu thỉnh xong, ở trước mặt tượng làm Ấn, dùng Cà Sa che trùm, hoặc dùng khăn sạch che trùm Ấn ấy xong, chí tâm tụng Chú mãn tám trăm biến, lại đừng theo duyên khác. Tụng Chú này xong thì tùy theo tâm đã ước nguyện đều được vừa ý.
Tùy theo việc lớn nhỏ, một ngày cho đến bảy ngày làm pháp, ngày ngày ba thời: Sáng sớm, giữa ngày. Giờ Ngọ với lúc hoàng hôn… y theo lúc trước làm pháp ắt điều Nguyện được kết quả, trừ chẳng chí tâm.
Thập Nhị Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Thân Ấn Chú thứ chín: Hai tay đều xếp bày ngón vô danh ngay trên lưng ngón giữa, dựng hai ngón giữa dính đầu nhau. Hợp dựng hai ngón út, hai ngón cái kèm dính nhau, co hai ngón trỏ trụ đầu nhau, đều đè đầu ngón cái. Khiến lóng thứ hai của ngón trỏ ấy ngang bằng nhau, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là:
Úm ma ha thuế đê sa ha.
Pháp Ấn Chú này. Lấy phân bò, nước đái bò, bơ, sữa, váng sữa đặc. Lạc cùng một đại lượng, hòa chung với nhau rồi quấy đảo. Dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới, hướng mặt về chánh Đông, kèm hai bàn chân ngồi xổm. Liền Chú vào thuốc lúc trước một trăm lẻ tám biến… sáu tháng uống một lần, một năm lại uống vào thì thân của mình không có bệnh. Trị bệnh rất tốt.
Quán Thế Âm Bồ Tát Bất Không Quyến Sách Thân Ấn Chú thứ nhất: Dựa theo Quán Thế Âm Mẫu Thân Ấn lúc trước.
Chỉ sửa: Mở hai ngón giữa cách nhau khoàng một Thốn 1/3dm. Hơi nâng hai ngón trỏ, ngón vô danh đừng dính vào ngón cái. Ở khoảng giữa ngón trỏ, ngón vô danh mở đất dung chứa một ngón giữa.
Đưa ngón trỏ qua lại Chú là:
Đá điệt tha úm thấp bế đa dạ thấp bế đa, bồ xà dạ phiếu hề phiếu hề bát la ma du đà tát đỏa ma ha ca lô nị ca sa ha.
Pháp Ấn Chú này thông với mọi loại dụng, đều có sức mạnh lớn, cũng hay hàng phục tất cả quỷ thần ác, chữa trị tất cả bệnh. Tất cả nạn giặc cướp đều chẳng thể hại.
Nếu bị gông cùm xiềng xích. Lấy Thí Du Mạt La Chỉ làm Ấn Chú xong, xoa bôi trên gông cùm, lại chí tâm tụng Chú liền được giải thoát.
Quán Thế Âm Bồ Tát Bất Không Quyến Sách Khẩu Pháp Ấn Chú thứ mười một: Đem hai ngón út dựng từng ngón bên trong. Ngón vô danh phải bật ở lưng ngón vô danh, ngón giữa trái hứng vào khoảng giữa của ngón trỏ, ngón giữa nhập vào.
Ngón vô danh trái từ khoảng giữa của ngón giữa, ngón vô danh phải ló ra liền đùa vào khoàng giữa của ngón trỏ, ngón giữa nhập vào. Dựng thẳng hai ngón giữa trụ đầu nhau, co hai ngón trỏ đều móc đầu ngón vô danh. Kèm hai ngón cái dựng thẳng trụ đầu nhau cách lìa ngón út khoảng nửa thốn 1/6dm.
Đồng tụng Chú lúc trước Quán Thế Âm Bồ Tát Bất Không Quyến Sách Nha Pháp Ấn Chú thứ mười hai:
Dựa theo Khẩu ấn lúc trước, chỉ sửa: Co đầu hai ngón giữa đều đè đầu hai ngón cái, ló hai ngón út ra bên ngoài, bên phải đè bên trái, cùng nắm lưng ngón vô danh Chú dùng Chú lúc trước.
Một pháp ấn này hay trừ tất cả nạn: Nước, lửa, gió, giặc cướp, đao với vua chúa.
Cột trói nhóm nạn: Dạ Xoa, La Sát, tất cả Quỷ Thần, Rồng độc, rắn độc.
Nếu người ngày ngày thường làm cúng dường thì được Quán Thế Âm với các hàng Bồ Tát sanh vui vẻ. Kho chết được sanh về cõi nước A Di Đà, lại tùy theo ý vãng sanh về mười phương Tịnh Thổ.
Nếu muốn ngưng gió. Trước tiên dùng Chú này chú vào tro một trăm lẻ tám biến, gói trong mãnh lụa nhỏ rồi đem theo thân đi. Nếu gió thổi đến, dùng tay phải lấy tro, hướng vào gió mà đánh rải, tiếp theo dem các ngón còn lại của tay phải nắm quyền, dựng thẳng ngón trỏ, hướng vào cơn gió, luôn luôn tụng Chú, giận dữ quát tháo thì gió liền bị chặt đứt.
Quán Thế Âm Bồ Tát Bất Không Quyến Sách Tâm Trung Tâm Chú thứ mười ba:
Chú là:
Úm lợi tất, để lý lô ca, tỳ xả dạ a mô già ba xá ma ha cưu lô đà la xà dạ lợi đà dạ a ba la đề a đá ô hồng, ô hồng phất phất.
Một pháp Chú này hay diệt tội chướng, sám hối, trị bệnh rất cá thần nghiệm, đủ như Kinh Bất Không Quyến Sách nói pháp vẽ tượng Quán Thế Âm Bồ Tát Tượng Nhất Thiết Quán Thế Âm Bồ Tát, toàn thân màu trắng.
Ngồi kiết già trên tòa hoa sen trăm báu trang nghiêm, đầu đội mão hoa bảy báu trang nghiêm có vòng hào quang, trong mão báu ấy có vị Hóa Phật. Nirmāṇa buddha đứng, phía sau mão hoa ấy làm ánh sáng Bá Ky. Vòng lặp như vân tay, bên trong ánh sáng ấy hết thảy làm màu đỏ.
Lưng Tượng ấy dựa vào cái ghế bảy báu năm màu Tượng ấy: Tay trái co cánh tay ngay trái tim, lại co ngón giữa hướng lên trên dựng thẳng. Tay phải co cánh tay hướng lên trên tay trái, co ngón trỏ và ngón cái vịn nhau, rồi trụ trên ngón giữa của tay trái.
Cổ tượng ấy có Anh Lạc châu báu. Hai cổ tay đều có vòng xuyến báu, lại dùng hoa báu trang nghiêm, lụa trắng mỏng quấn bắp tay. Thân mặc quần lụa trắng mọng có hoa trang nghiêm. Eo quấn ấy làm mảu xanh bọc màu đỏ, lại dùng lụa báu cột trên eo lưng ấy.
Hai gian trái phải của Tượng ấy đều có một vị Bồ Tát làm Thị Giả. Ante vāsi. Hai vị Bồ Tát ấy, toàn thân màu vàng, đầu đều đội mão hoa. Vị Bồ Tát ở gian bên phải có tay phải co cánh tay cầm cây phất trắng, tay trái co cánh tay cầm hoa sen.
Vị Bồ Tát ở gian bên trái có tay phải co cánh tay cầm một cành hoa báu tạp, tay trái co dựng bàn tay cầm cây phất trắng. hai Bồ Tát đều mặc quần lụa màu mây hồng lúc bình minh, bên trên có lụa mỏng trắng trang điểm hoa bện thắt ở trên bắp đùi, hai Bồ Tát đều đứng ở trên tòa hoa sen.
Hai gian trái phải ở phía sau Thị Giả của Tượng Ấy đều có ba vị Bồ Tát theo vị trí trên dưới, thân đều hướng mặt về Tượng chiêm ngưỡng mà ngồi, trợ giúp Quán Thế Âm, dùng Thần Thông tự tại cứu giúp chúng sanh.
Gian bên trái của Tượng ấy: Một vị Bồ Tát bên trên, toàn thân màu vàng, trên đầu có màu vàng nhạt, dùng báu trang điểm đường viền hoa ở trên búi tóc, hào quang tròn màu xanh, lỗ tai đeo vòng màu trắng, duỗi bàn tay phải ngay trên đầu gối phải đều giương năm ngón tay, rũ lòng bàn tay xuống dưới.
Tay trái để ngay trái tim cầm hoa sen, dùng lụa hoa mỏng màu trắng quấn trên bắp tay, trên hai cổ tay đeo vòng xuyến báu, lại mặc quần lụa màu mây hồng lúc bình minh, rồi ngồi trên hoa sen xanh.
Vị Bồ Tát kế tiếp bên dưới, toàn thân màu vàng, đầu đội mão hoa, làm hào quang tròn đỏ, lỗ tai đeo vòng màu trắng, ngực vú cao lớn, dùng lụa hoa trắng mỏng quấn ngang trên vú. Co lưng bàn tay phải chạm dính trên bắp đùi, dựng bàn tay hướng lên trên, đều bung năm ngón tay. Tay trái che ở khoảng giữa của bắp đùi với đầu gối, cỏ tay có vòng xuyến, mặc quần màu mây hồng lúc bình minh, ngồi trên hoa sen hồng.
Vị Bồ Tát kế tiếp bên dưới, toàn thân màu trắng, trên khuôn mặt tại tam tinh có thiên nhãn. Devya cakṣu. Búi tóc trên đầu tựa như màu đỏ, đầu không có vòng hoa, làm hào quang tròn màu xanh, trên lỗ tai không có đeo vòng.
Thân có bốn cánh tay, Bên phải: Một cánh tay co khuỷu tay hướng về phía sau, ở khoảng cái nách, ló bàn tay ra hướng về cái đầu, để ngón tay ấy trụ dính tóc bên mé tai. Một tay co cánh tay trụ trên đầu gối phải nắm xâu chuỗi màu vàng, xâu chuỗi có hai mươi mốt hạt.
Bên trái: Một cánh tay co khủy tay hướng về phía sau ở khoảng cái nách, ló bàn tay ra hướng lên trên đến ở trên vai, ngón tay như quyền. Một cánh tay trụ dính ở khoảng giữa bắp đùi với đầu gối, úp bàn tay cầm tráp Kinh, dùng lụa mỏng quấn trên bắp tay, mặc quần màu mây hồng lúc bình minh, giao chéo bàn chân cẳng chân rồi ngồi trên tòa hoa sen màu tím.
vị Bồ Tát ở gian bên phải, theo thứ tự: Một vị Bồ Tát bên trên, toàn thân màu trắng, đầu đội vòng hoa, làm hào quang tròn màu xanh, lỗ tai đeo vòng màu trắng, ngực vú cao lớn, dùng lụa hoa mỏng trắng bện thắt ngang trên vú. Tay trái co cánh tay ngay trên bắp đùi trái, cầm hoa sen.
Tay phải đè trên bắp đùi, ngữa lên cầm một vật có dạng tựa quả trái, cũng tựa như bông hoa chứa đựng trong lòng bàn tay. Mỗi mỗi theo thứ tự làm như thế. Cổ tay trái có vòng xuyến, mặc quần màu mây hồng lúc bình minh, an định đầu gối, ngồi ở trên hoa sen tím.
Vị Bồ Tát kế tiếp bên dưới, toàn thân màu vàng, đầu đội vòng hoa màu đỏ, làm hào quang tròn đỏ, lỗ tai đeo cái vòng màu trắng. Tay trái co cánh tay ngay trên bắp đùi trái, cầm hoa sen. Tay phải để ngay trên bắp đùi phải, ngửa lòng bàn tay bung tán ngón tay như hiển cao lớn. Cánh tay, cổ tay có vòng xuyến, dùng lụa mỏng trắng ting quấn trên bắp tay ấy, mặc quần màu mây hồng lúc bình minh, giao chéo chân ngồi trên hoa sen hồng.
Vị Bồ Tát kế tiếp bên dưới, toàn thân màu vàng, đầu có vòng hoa, ngửa mặt hướng lên trên nhìn ngó Tượng ấy, lỗ tai đeo cái vòng màu trắng, làm hào quang tròn màu xanh. Thân có bốn cánh tay, ngực vú cao lớn, dùng lụa báu màu trắng bện thắt ngang trên vú.
Hai tay chắp lại. Lại một tay bên trái co cánh tay ngay trên bắp đùi trái cầm hoa sen, hoa ấy màu tím, cọng hoa ấy có dạng như hình cái chuôi mũi tên rồi làm màu vàng, đầu bông hoa hướng lên trên. Một tay bên phải co cánh tay hướng về phía sau từ cái nách ló bàn tay ra, hướng lên trên đến trước mặt cái vai, cầm xâu chuỗi, xâu chuỗi có hai mươi mốt hạt. Mặc quần lụa mỏng hoa cúc màu đỏ, giao chéo chân ngồi trên hoa sen xanh.
Nhóm Bồ Tát ấy đều là Quyến Thuộc của Quán Thế Âm Bồ Tát.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Anh Lạc Hiện Tại Báo - Phẩm Mười Chín - Phẩm Hành Hóa Thuận Hợp - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Bột Sao - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Bát Nê Hoàn - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Anh Lạc Hiện Tại Báo - Phẩm Ba Mươi - Phẩm Ba đường, Ba Thừa - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Chuyển Pháp Luân
Phật Thuyết Kinh Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp Thiên Phật Danh - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đại Tát Già Ni Kiền Tử Sở Thuyết - Phẩm Ba - Phẩm Nhất Thừa - Tập Năm