Phật Thuyết Kinh Chiêm Sát Thiện ác Nghiệp Báo - Phần Năm

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Đăng, Đời Tùy

PHẬT THUYẾT KINH

CHIÊM SÁT THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bồ Đề Đăng, Đời Tùy  

PHẦN NĂM  

Lại nữa, quán xét thân tâm mình đều vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, như huyễn như hóa, đáng để nhàm chán xa lìa. Nếu người có thể tu tập quán như vậy mau chóng tăng trưởng lòng tin thanh tịnh, bị các chướng ngại dần dần dần giảm bớt.

Vì sao?

Vì người này học tập nghe danh hiệu của ta, cũng có thể tu học nghe danh hiệu của Chư Phật mười phương, gọi là người học được tâm lễ bái cúng dường ta, cũng là người học tâm lễ bái cúng dường Chư Phật mười phương. Gọi là người học nghe Kinh đại thừa sâu xa.

Gọi là người học chấp trì viết chép cung kính cúng dường Kinh đại thừa thâm sâu. Gọi là người học thọ trì đọc tụng Kinh đại thừa sâu xa. Gọi là người học xa lìa tà kiến ở trong chánh pháp uyên thâm không có hủy báng. Gọi là người học tin hiểu hoàn thành Đệ nhất nghĩa đế thâm sâu.

Gọi là người có khả năng diệt trừ các tội chướng. Gọi là người được vô lượng công đức tụ. Người ấy khi bỏ thân này hoàn toàn không rơi vào đường ác, ở nơi tám nạn, trở lại nghe chánh pháp tu tập thực hành, cũng tùy theo hạnh nguyện mà sinh đến cõi Phật thanh tịnh ở phương khác.

Lại nữa, người ấy muốn sinh ở phương khác hiện ở cõi nước thanh tịnh thì nên phải tùy theo danh hiệu Phật của cõi ấy chuyên tâm tụng niệm nhất tâm không tán loạn như quán xét ở trên, chắc chắn được sinh vào cõi Phật đó thanh tịnh, căn lành tăng trưởng nhanh chóng chứng quả vị không lui sụt, phải biết nhất tâm buộc niệm như trên suy nghĩ về pháp thân bình đẳng của Chư Phật, trong các căn lành việc làm là trên hết.

Nghĩa là siêng năng tu tập dần dần có thể đạt được tam muội nhất hướng. Nếu người đạt đến tam muội nhất hướng thì thành tựu được tâm hạnh vi diệu rộng lớn, gọi là đắc pháp tương tự Vô sinh pháp nhẫn, do đã nghe được danh hiệu ta, cũng đã nghe được danh hiệu Chư Phật mười phương. Do đã chí tâm lễ bái cúng dường ta, cũng chí tâm lễ bái cúng dường Chư Phật mười phương. Do đã nghe được Kinh Điển đại thừa sâu xa.

Có khả năng viết chép cung kính cúng dường Kinh Điển đại thừa uyên thâm, có thể thọ trì đọc tụng Kinh Điển đại thừa sâu rộng, đã an trú hoàn toàn trong Đệ nhất nghĩa đế sâu xa không sinh lo sợ xa lìa hủy báng, tâm được chánh kiến có khả năng hiểu biết, chắc chắn diệt trừ các tội chướng, hiện tại chứng được vô lượng công đức tụ.

Vì sao?

Nghĩa là tâm bồ đề không còn phân biệt, vắng lặng trí tuệ phát sinh các phương tiện thực hành đầy đủ hạnh nguyện. Người có khả năng nghe danh hiệu ta, có nghĩa tin chắc chắn thực hành sẽ có lợi ích, cho đến những người có được tất cả khả năng khác đều có thể chứng được nhân của quả vị nhất thừa không thoái chuyển.

Nếu tâm còn tán loạn cấu uế, dù đã tụng niệm danh hiệu ta nhưng không gọi là nghe, vì không có khả năng tin hiểu dứt khoát, chỉ được phước báo lành ở thế gian, không được lợi ích sâu xa rộng lớn. Như vậy tâm tán loạn cấu uế, tuy người đã tu tập tất cả việc lành mà không thể được lợi ích rộng lớn.

Này Thiện Nam! Phải biết người siêng năng tu tập thiền định vô tướng như trên thì không bao lâu đạt được lợi ích sâu rộng, lần lần thành tựu được lợi ích to lớn của Đức Phật. Có nghĩa là thể nhập quả vị kiên tín, thành tựu pháp tín nhẫn, thể nhập quả vị kiên tín, thành tựu pháp thuận nhẫn rồi thì nhập vào quả vị chân chánh chứng đắc pháp nhẫn vô sinh.

Người thành tựu tín nhẫn thì có khả năng trở thành chủng tánh của Như Lai. Người thành tựu thuận nhẫn có thể hiểu rõ hạnh của Như Lai. Người thành tựu vô sinh nhẫn thì thực hành được hạnh của Như Lai, tuần tự trở thành Phật. Nói tóm lại có bốn loại.

Những gì là bốn?

1. Tin tưởng pháp hoàn toàn nên thành Phật. Nghĩa là nhớ vào địa chủng tánh tin tưởng chắc chắn vào các pháp không sinh, không diệt thanh tịnh bình đẳng không thể mong cầu.

2. Hiểu rõ hoàn toàn các pháp nên thành Phật. Có nghĩa nhờ địa giải hạnh hiểu sâu xa về pháp tánh biết rõ nghiệp Như Lai không tạo, không gây ở trong sinh tử, Niết Bàn, không sinh khởi hai tưởng, tâm không còn lo sợ.

3. Chứng đắc pháp hoàn hảo nên thành Phật. Nghĩa là nhờ vào địa tịnh tâm để được trí không phân biệt pháp vắng lặng, không thể nghĩ bàn, thực hành tự nhiên không mong cầu tưởng.

4. Tất cả hạnh công đức đầy đủ nên thành Phật. Nghĩa là do an trú hoàn toàn địa Bồ Tát có thể diệt trừ hết thảy chướng ngại, vô minh, mộng ảo.

Lại nữa, nên biết người tu học thiền định ở thế gian có ba loại.

Đó là:

1. Không có phương tiện năng lực tin hiểu, thích thọ nhận công đức của các thiền định mà sinh kiêu mạn, là thiền trói buộc mong cầu lại thế gian.

2. Không có năng lực phương tiện tin hiểu, do thiền này phát sinh đầy điều nhàm chán xa lìa. Sợ hãi sinh tử lại rơi vào nhị thừa.

3. Có năng lực phương tiện tin hiểu.

Nghĩa là do dựa vào một cảnh giới thật, tu tập thân gần với hai loại: Thiền chỉ và thiền quán, có thể tin hiểu tất cả pháp, chỉ do tâm sinh khởi tưởng đều như mộng như huyễn, tuy được các công đức thiền định ở thế gian mà không chắc chắn, lại không mong cầu quả ba cõi, lại hiểu rõ sinh tử tức Niết Bàn, cũng không khiếp sợ thoái lui mà cầu nhị thừa.

Tu học tất cả pháp môn các thiền định tam muội thì nên biết có mười loại thứ đệ tướng môn, đầy đủ tóm thâu các pháp thiền định, có khả năng làm cho người học thành tựu thích ứng không sai lầm, không xảo trá.

Những gì là mười?

1. Giữ niệm tướng phương tiện.

2. Muốn an trú vào tướng cảnh giới.

3. Ban đầu an trú cảnh giới phân biệt biết rõ phát ra tướng trú nhập.

4. An trú cảnh giới hoàn toàn đạt được tướng kiên cố.

5. Suy nghĩ phương tiện mạnh mẽ lại cầu tướng tiến thú.

6. Tâm dần dần được điều thuận vui vẻ, diệt trừ nghi hoặc hiểu biết tướng tự an úy.

7. Được thăng tiến, ý chuyên nhất ít phân biệt cùng với sự hiểu biết đắc tướng lợi ích.

8. Thay đổi sự tu tập kiên cố, trí tuệ tăng trưởng đạt được tướng thắng công đức đối trị thành tựu.

9. Tùy theo tâm suy nghĩ phát ra những công đức bên ngoài giống như ý muốn được tướng không sai lầm, dối trá.

10. Nếu người tu lại sửa đổi khác trước mà khởi phương tiện tuần tự thành tựu tướng xuất nhập tùy tâm siêu việt tự tại.

Đây gọi là mười loại thứ đệ tướng môn, tóm thâu các việc thiền định.

Bấy giờ, Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín hỏi Đại Bồ Tát Địa Tạng: Hiền Giả làm sao thuyết giảng pháp sâu xa khiến cho chúng sinh xa lìa khiếp nhược?

Đại Bồ Tát Địa Tạng bảo: Này thiện nam! Phải biết ban đầu học phát tâm cầu đến đại thừa, chưa từng có lòng tin thì đối với pháp sâu xa của đạo vô thượng thích sinh nghi ngờ khiếp sợ. Ta thường dùng phương tiện thiện xảo tuyên thuyết nghĩa chân thật nên được an ổn xa lìa hèn yếu. Vì thế gọi ta là Thiện An Úy.

An Úy là thế nào?

Nghĩa là chúng sinh căn cơ thấp kém, tâm hẹp hòi, nghe đạo tối thắng vô thượng vi diệu, ý tuy ưa thích phát tâm nguyện hồi hướng nhưng lại suy nghĩ cầu đạo vô thượng cần phải tích tập công đức rộng lớn khó thực hành khổ hạnh, tự độ mình, độ người, trải qua số kiếp dài lâu ở trong sinh tử thường chịu khổ mới chứng đắc.

Vì thế tâm chúng sinh hèn yếu. Ta liền vì họ thuyết giảng nghĩa chân thật, nghĩa là tất cả các pháp tự tánh vốn không, rốt ráo không ngã, không tạo tác, không thọ nhận, không mình, không người, không đi, không đến, không có nơi chốn, cũng không có quá khứ, hiện tại, vị lai và vì họ thuyết giảng về mười tám không, không có sinh tử Niết Bàn, tất cả các pháp tướng chân thật nhưng không thể nắm bắt.

Lại nữa, vì họ thuyết tất cả các pháp như huyễn, như hóa, như trăng trong nước, như ảnh trong gương, như thành Càn Thát Bà, như hư không dung chứa các tiếng vang, như ánh sáng mặt trời, như bọt nước, như sóng nắng, như đèn, như mắt bị nhặm, như mộng, như tia sấm, như mây, phiền não sinh tử tánh rất vi tế, có thể diệt.

Lại nữa, phiền não sinh tử hoàn toàn không có thể tánh mong cầu không thể được, xưa nay không sinh, hiện tại không diệt, tự tánh vắng lặng tức là Niết Bàn, thuyết giảng như vậy có thể diệt trừ tất cả các kiến, bớt tự ngã và tâm chấp trước vào tưởng, nên xa lìa hèn yếu. Lại có chúng sinh không hiểu nghĩa lý lời nói của Như Lai mà sinh lo sợ, người nên biết ý chỉ, lời nói của Như Lai.

Có nghĩa Như Lai thấy một cảnh giới thật, hoàn toàn đã xa lìa sinh, già, bệnh, chết, các pháp xấu, chứng được pháp thân ấy luôn luôn trong sáng không biến đổi được vô lượng tụ công đức. Lại có thể thấy rõ tất cả trong thân chúng sinh đều có công đức thanh tịnh vi diệu chân thật như vậy, nhưng vì vô minh mê mờ đã che kín làm chướng ngại, mãi chịu vô lượng các khổ sinh già, bệnh, chết.

Nên Như Lai đã khởi tâm từ bi rộng lớn này muốn làm cho hết thảy chúng sinh lìa các khổ, đều được pháp thân an lạc Đệ nhất nghĩa, mà pháp thân này là không còn phân biệt, xa lìa các suy nghĩ, chỉ diệt trừ hư dối vọng vọng tưởng, không khởi niệm tham chấp quả vị chứng.

Nhưng tất cả chúng sinh thường thích phân biệt chấp giữ các pháp, vì điên đảo vọng tưởng nên chịu sinh tử.

Cho nên Như Lai vì muốn làm cho họ xa lìa tưởng phân biệt chấp trước, thuyết giảng tất cả pháp thế gian, thể hoàn toàn trống rỗng, không hiện có, cho đến tất cả pháp xuất thế gian, thể cùng hoàn toàn trống rỗng không hiện có. Nếu giảng thuyết rộng rãi là như mười tám không. Như vậy trình bày tất cả pháp đều không lìa thể bồ đề.

Thể bồ đề là chẳng có, chẳng không, chẳng phải không có, chẳng phải không không, chẳng có chẳng đủ, chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải không một, chẳng phải không khác, chẳng phải một khác với tất cả, cho đến rốt ráo không có một tướng mà có thể nắm bắt, thì do lìa tất cả tướng.

Lìa tất cả tướng có nghĩa là không thể dựa vào lời nói chấp giữ. Do trong pháp bồ đề không có thu nhận lời nói và không thể nói thuyết giảng. Lại không thể dựa vào tâm niệm để biết, vì trong pháp bồ đề không có thể nhận giữ, không mình, không người xa lìa tướng phân biệt.

Nếu người có tưởng phân biệt thì gọi là hư dối, không gọi là tương ứng. Thuyết giảng như vậy chúng sinh căn cơ thấp kém không thể hiểu rõ là pháp thân Như Lai đạo vô thượng, chỉ là pháp trống rỗng hoàn toàn rốt ráo không có sở hữu. Tâm người ấy hèn yếu, lo sợ đọa lạc không có chỗ trú, hoặc sinh tưởng đoạn diệt làm giảm bớt kiến chấp lại phát sinh hủy báng xem nhẹ người khác.

Ta liền vì họ thuyết giảng tự tánh pháp thân của Như Lai chẳng phải không mà có bản thể chân thật, đầy đủ vô lượng công đức thanh tịnh, từ xưa đến nay tự nhiên viên mãn, chẳng tu tập, chẳng tạo tác, cho đến trong thân của tất cả chúng sinh cũng đều đầy đủ, không biến, không khác, không sinh, không diệt. Họ nghe thuyết như vậy trừ bỏ hèn yếu. Đây gọi là An Úy.

Lại nữa, chúng sinh mê mờ chấp giữ nặng nghe thuyết pháp này cũng sinh hèn yếu. Vì cho pháp thân của Như Lai từ xưa đến nay đầy đủ chẳng phải tu, chẳng phải tướng nên khởi không có tướng thật mà sinh hèn yếu, hoặc suy tánh tự nhiên rơi vào tà kiến điên đảo, ta liền thuyết giảng thực hành tất cả pháp thiện được tăng trưởng đầy đủ sắc thân của Như Lai vô lượng quả báo công đức thanh tịnh, nghe thuyết giảng khiến họ xa lìa hèn yếu. Đây gọi là An Úy.

Ta đã thuyết nghĩa sâu xa, chân thật thích hợp không có lỗi lầm, để xa lìa lời nói sai lầm.

Làm thế nào biết rõ để xa lìa tưởng sai lầm?

Nghĩa là pháp thân của Như Lai, dù không có diễn tả về cảnh giới lìa suy nghĩ của tâm chẳng phải không, chẳng phải chẳng không và không có tất cả tướng không thể dùng lời nói để trình bày, mà căn cứ vào nhân duyên huyễn hóa của Thế đế, giả gọi pháp trong tương đối, đối đãi, tức có thể dùng phương tiện hiển bày để giảng thuyết.

Vì pháp thân này tánh chân thật không có phân biệt, xa lìa tướng mình và tướng người, không phải không, không phải không không, cho đến xa lìa tất cả tướng nên nói thể của pháp đó hoàn toàn không, không có sở hữu, do lìa tâm suy nghĩ phân biệt nên tất cả không có một tướng mà có thể tự thấy tự biết là có. Vì thế nghĩa không này, nhất định chân thật thích hợp không sai lầm.

Lại nữa, trong nghĩa không đó, do xa lìa tâm niệm vọng tưởng phân biệt nên hoàn toàn không có một tướng nên có thể trống rỗng, vì chỉ có chân thật tức là không phải không, có nghĩà lìa bỏ nhận biết của tưởng, không có các tưởng hư dối, tất cả thường không biến không khác. Do không có một tướng có thể hủy hoại có thể diệt, xa lìa tăng giảm.

Người đó không còn phân biệt cái thể chân thật, từ xưa đến nay đầy đủ vô lượng việc công đức tự nhiên, thành tựu thích ứng không xa lìa, không giải thoát, nên thuyết là không phải không, thể chân thật các công đức như vậy thì tất cả chúng sinh đều có nhưng vì vô minh che lấp mà không thấy biết, không thể được công đức lợi ích, lại cho khác nhau, gọi là chưa có. Do không thấy biết thể của pháp ấy nên những việc làm công đức lợi ích, chẳng phải chúng sinh đó có thể thọ dụng, không cho là thuộc của họ.

Chỉ dựa vào việc tu tập hết thảy pháp lành, đối trị các nhận thấy sai lầm làm chướng ngại pháp thân ấy. Sau đó được công đức lợi ích, vì thế nói tu tập tất cả pháp lành sinh được sắc thân của Như Lai.

Này Thiện Nam! Như nghĩa lý sâu xa ta đã thuyết giảng nhất định chân thật xa lìa những sai trái lỗi lầm, phải biết như vậy.

Bấy giờ, Đại Bồ Tát Địa Tạng thuyết giảng những pháp môn chính yếu thâm sâu, phương tiện thù thắng này thì có mười vạn ức chúng sinh phát tâm bồ đề Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, an trú trong quả vị Kiên tín. Lại có chín vạn tám ngàn Bồ Tát chứng đắc pháp nhẫn vô sinh. Tất cả đại chúng đều đem hương hoa của trời cúng dường Đức Phật và cúng dường Đại Bồ Tát Địa Tạng.

Lúc ấy, Đức Phật bảo các đại chúng: Các ông đều phải biết thọ trì pháp môn này, tùy theo nơi an trú lưu truyền rộng rãi.

Vì sao?

Vì pháp môn này rất là khó được, có nhiều lợi ích. Nếu người nào nghe được danh hiệu Đại Bồ Tát Địa Tạng này và tin tưởng những pháp Bồ Tát đã giảng thuyết thì nên biết người ấy mau chóng diệt trừ tất cả các điều chướng ngại, mau chứng đạo vô thượng.

Cả đại chúng cùng nhau thưa: Chúng con sẽ thọ trì lưu truyền pháp này ở thế gian không giám làm quên mất.

Lúc ấy, Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Như lời Thế Tôn dạy sáu căn tụ ở trong Kinh gọi pháp môn gì?

Pháp chân thật chính yếu này con sẽ thọ trì khiến cho đến đời vị lai, tất cả đều được nghe.

Đức Phật bảo Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín: Pháp môn này gọi là Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Cũng gọi là Diệt Trừ Các Chướng Ngại. Tăng Trưởng Lòng Tin Thanh Tịnh. Cũng gọi là Khai Thị Giáo Hóa Tìm Đến Đại Thừa. Tiến Đến Mục Đích Phương Tiện. Hiển Bày Nghĩa Sâu Xa Rốt Ráo Chân Thật.

Cũng gọi là Thiện An Úy làm xa lìa hèn yếu mau chóng thể nhập pháp môn kiên tín quyết định. Nương vào nghĩa này, ông nên thọ trì. Phật giảng thuyết pháp môn này rồi, tất cả đại chúng vui vẻ, tin tưởng thọ trì.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần