Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Một - Kinh đại Thần Lực đà La Ni Thích Ca Phật đảnh Tam Muội đà La Ni - Tập Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐÀ LA NI TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

A Địa Cồ Đa, Đời Đường  

PHẦN MỘT

KINH ĐẠI THẦN LỰC

ĐÀ LA NI THÍCH CA PHẬT

ĐẢNH TAM MUỘI ĐÀ LA NI  

TẬP BA  

Tiếp theo, thỉnh Thị Giả. Ante vāsi cửa Bắc là Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Bồ Tát. Eka daśa avalokiteśvara bodhisattva.

Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Bồ Tát Ấn Chú thứ bảy.

Dựng thẳng hai ngón giữa, đầu ngón tay vịn nhau. Dựng thẳng hai ngón trỏ cách nhau bốn thốn rưỡi 3/2dm. Kèm dựng thẳng hai ngón cái, hai ngón vô danh cách nhau một Thốn tám phân 3/5dm. Dựng thẳng hai ngón út cách nhau năm thốn 5/3dm. Đưa ngón trỏ qua lại, Chú bảy biến xong, dần dần co đầu ngón vào lòng bàn tay, lễ bái phụng thỉnh.

Làm pháp cũng như lúc trước.

Nói Chú là:

Úm a lô lực sa ha.

Tiếp theo, thỉnh Kim Cang ở bốn góc. Tụng Kim Cang Tạng Chú lúc trước, làm Kim Cang Tạng Vương Ấn lúc trước, từ góc Đông Bắc thỉnh… góc Đông Nam, góc Tây Nam, góc Tây Bắc đều thỉnh một lần.

Bốn lần cong ngón tay Ấn xong, tụng Chú ấy tiếng liên tục chẳng gián đoạn, miệng nói rằng: Từ góc Đông Bắc phụng thỉnh Kim Cang. Góc Đông Nam, Tây Nam với Tây Bắc phụng thỉnh Kim Cang đều trụ ở vị trí của mình. Bản vị như pháp mà ngồi.

Liền tác Hoa Tòa Ấn tùy theo mặt trời, ba lần chuyển Ấn tụng Chú, Chú đồng với Tòa Ấn Chú đã nói lúc trước, không có khác. Tụng bảy biến xong, cung kính đảnh lễ. Lễ xong, tiếp theo tác Đại Tam Muội Ấn, tụng Tam Muội Chú.

Đại Tam Muội Sắc Ngữ kết giới Ấn Chú thứ tám.

Hai tay đem hai ngón vô danh, hai ngón út cài chéo nhau bên trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, dựng thẳng hai ngón giữa cùng vịn đầu ngón, co hai ngón trỏ vịn lưng lóng trên của ngón giữa, co hai ngón cái phụ dính ngón trỏ, co lóng thứ nhất, hai lòng bàn tay cách nhau bốn thốn 4/3dm, đội trên đảnh cung kính, ở bốn phương trong hư không tùy theo mặt trời chuyển theo bên phải, tụng Tam Muội Đại Kết Giới Chú.

Chú là:

Úm thương ca lễ ma ha tam muội diệm bàn đà, bàn đà văn xà, văn xà sa bà ha.

Tụng bảy biến xong, đem Thủ Ấn tùy theo mặt trời chuyển, chuyển ba vòng xong, tiếp theo nên sắc rằng: Tam muội kết giới, đầy đủ oai nghi, như pháp mà trụ.

Nếu kết giới thời bỏ văn xà, văn xà. Bhaṃja bhaṃja. Khi giải giới thời dùng văn xà, văn xà. Bhaṃja bhaṃja.

Đây là Thập Phương Tam Thế Chư Phật Đại Tam Muội Đà La Ni Chú Ấn. Nếu người chí tâm thọ trì đọc tụng đủ ba mươi vạn biến, cho đến bảy mươi vạn biến thì diệt trừ tội: bốn nặng, mười ác, năm nghịch, Nhất Xiển Đề… trừ bỏ mọi loại hoạnh chướng, hoạnh não. Mọi người nhìn thấy đều rất vui vẻ. Đối với tất cả Tam Muội Đà La Ni Lực mau được thành tựu.

Thiện Nam Tử. Kula putra dùng tay bưng lò hương, đốt hương cúng dường. Vì tất cả cha mẹ bảy đời, cha mẹ hiện đang sống bỏ thêm vào một hoàn hương. Viên hương. Vì khắp tất cả tứ sinh bốn loài chúng sinh noãn, thai, thấp, hóa trong sáu đường bỏ thêm vào một viên hương. Lại vì tất cả thí chủ ở mười phương bỏ thêm vào một viên hương. Lại vì thân của mình bỏ thêm một viên hương.

Bỏ thêm hương xong, ấn vào lò hương ấy, Chú bảy biến xong, gọi là nâng lò hương. Chí tâm cúng dường Thích Ca Văn Phật kèm với quyến thuộc của Phật, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát kèm với quyến thuộc của Ngài, cúng dường Kim Cang Tạng Bồ Tát kèm với quyến thuộc của Ngài.

Liền vận tâm khắp, vòng khắp tất cả Tịnh Thổ ở mười phương, bốn Sinh trong sáu đường, tất cả địa ngục, tất cả nơi của chúng sinh có bệnh khổ… mây hương tràn đầy khắp mười phương pháp giới, làm cung điện lầu gác Hương, ao đài bảy báu, âm thanh vi diệu, tất cả việc Phật, cúng dười…

Mây hương tràn đến địa ngục phát ra âm thanh hòa nhã xưng tán Tam Bảo, tùy nghe tùy xưng lìa khổ địa ngục. Tràn đến khắp sáu đường, mản nguyện của chúng sinh. Chúng sinh bệnh khổ được mây hương nhập vào thể, đều trừ bỏ được tất cả mọi loại bệnh não.

Đây là pháp Phật Đảnh Tam Muội Hương Vân Cúng Dường. Tất cả vật báu, tất cả các hoa, hoa Mạn Đà La. Mandāra, hoa Phân Đà Lợi. Puṇḍarika, hoa Câu Vật Đầu. Kumuda, hoa Chiêm Bặc. Caṃpaka, tất cả hương bột, mọi loại hương xoa bôi, nước của các ao công đức hương… cúng dường.

Như lúc trước không có khác: Mây hoa hương bột thảy đều tràn đầy khắp mười phương pháp giới, cúng dường mọi loại báu, mọi loại thức ăn uống, mọi loại tài bảo, mọi loại vòng hoa, anh lạc, mão hoa, vật của nhóm xuyến báu… tất cả cúng hường.

pháp của ao hương dùng tám loại hương là Uất Kim, Trầm Thủy, Tô Hợp, Huân Lục, Hải Thử Ngạn Chiên Đàn, Ngưu Đầu Chiên Đàn, Xạ Hương, Long Não Hương… tám loại hương này cùng đâm giả làm thành bột, dùng nước sạch hòa rồi chứa đầy trong vật khí báu.

Ở bên trong Đạo Tràng, từ góc Đông Bắc, Nội Viện để một vật khí chứa nước thơm. Bên dưới cái cửa ở chính Đông, Đông Nam, chính Nam, Tây Nam, chính Tây, Tây Bắc, chính Bắc… tám chỗ như vậy đều để một vật khí chứa nước của tám loại công đức, cũng gọi là Đà La Ni Tam Muội Thủy. Lại gọi là Phật Đảnh Tam Muội Cam.

Lộ Diệu Dược, cũng gọi là Thanh Tịnh Đà La Ni Dược.

Cúng dường xong rồi, từ Phật thỉnh thuốc, uống vào ba lần, một ngày riêng một lần với rưới vảy trên đảnh đầu, mặt, thân, trái tim… bên trong bên ngoài thanh tịnh thì chướng nạn, bệnh khổ thảy đều tiêu diệt.

Tiếp theo, làm Hòa Nam. Vandana. Chí tâm đảnh lễ tất cả Chư Phật, bát nhã ba.

La Mật Bồ Tát, Kim Cang, tất cả Hiền Thánh. Hành Giả đứng dậy, làm lễ, Bái Ấn. Đồng với Thập Nhất Diện Bộ Lễ Bái Ấn.

Na mô tất yết la Ấn Chú thứ chín:

NAMAS KṚTA MUDRĀ.

Đời Đường nói là: Lễ bái, bên dưới có Tán Thán Chú.

Hai tay cùng hợp lòng bàn tay, dựng thắng mười ngón tay cùng cài chéo nhau, bên phải đè bên trái, mười đầu ngón tay ngang bằng ngay thẳng, liền tụng Na Mô Tất Yết La Chú.

Chú là:

Na mô đà xá nam bồ đà câu trí nam Úm hộ lô hộ lô tất đà, lô giả nễ tát bà, át tha sa đạt nễ sa bà ha.

Tụng ba biến xong, đảnh lễ một bái. Như vậy ba lần.

Người lễ bái như vậy, lễ tất cả Phật, Bát Nhã Bồ Tát, Kim Cang, Hiền Thánh diệt trừ tất cả nhóm tội: mười ác, năm nghịch, bốn nặng. Tất cả chướng nạn thảy đều tiêu diệt.

Nếu người lễ bái mười vạn ức Phật thì chẳng theo kịp công đức tác Ấn, lễ bái đã được của người tụng Đà La Ni này. Lễ xong, quỳ gối, tay bưng lò hương, đốt hương cúng dường tất cả Tam Bảo. Thứ hai lại đốt hương, hỏi han các Thiên Thần Vương, tất cả quỷ thần. Khởi đại từ bi xong đều ban cho vui vẻ.

Quy y Tam Bảo, phát tâm bồ đề, phóng lò hương xong, lui trở lại ngồi ngay thẳng thân, làm lễ Bái ấn. Để Ấn ngang ngực, liền tụng Tán Thán Tam Bảo Thần Lực Diệt Tội Đà La Ni Chú.

Chú là:

Na mô na bà na bà đê na hồng tam miểu tam bồ đà câu trí na hồng Na mô na bà na bà đê na hồng đạt ma câu trí na hồng Na mô na bà na bà đê na hồng tăng già câu trí na hồng đá điệt tha án a ma lệ, tỳ ma lệ nật ma lê lê tát bà bả ba ca sanh yết lê sa bà ha.

Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân chí tâm thọ trì đủ ba mươi vạn biến thì hay diệt tất cả tội nặng căn bản, tất cả chướng nạn thảy đều tiêu diệt. Ngày đêm sáu thời, mỗi thời riêng tụng Chú một trăm lẻ tám biến, hoặc bốn mươi chín biến, hoặc hai mươi mốt biến liên tục thọ trì thì tất cả bệnh đột ngột thảy đều tiêu diệt.

Sáng sớm, rửa tay, lau mặt, súc miệng sạch sẽ xong, hướng mặt về phía chánh Đông, Chú vào một bụm nước ba biến rồi rưới lên trên đỉnh đầu, mặt, thân, trái tim… như vậy ba lần thì tất cả người nhìn thấy đều vui vẻ, nơi chốn đi đến không có chướng ngại.

Tán thán xong rồi, chí tâm đảnh lễ Chư Phật, Bát Nhã Bồ Tát, Kim Cang… thỉnh cầu gia hộ.

Con. Họ tên là… thân nhiếp thọ, hộ niệm. Xin thương xót che giúp, ban cho con. Họ tên là… mọi loại hạnh nguyện. Con. Họ tên là… nương theo oai thần của Phật, thọ trì Phật Đảnh Tam Muội Đà La Ni Mạn Hý Lê Mộ Đà La, Mạn Trà La công đức đội trên đảnh đầu thọ trì.

Nói lời này xong, đội trên đảnh đầu cung kính, liền từ Đức Thế Tôn thỉnh Bát Nhã Ba La Mật Sổ Châu. Liền tác Sổ Châu Ấn.

Sổ Châu Ấn thứ nhất.

Tay trái: Đem ngón cái vịn trên móng ngón vô danh, dựng thẳng ngón út, ngón giữa… co ngón trỏ vịn lưng lóng trên của ngón giữa. Tay phải cũng giống như vậy, đem ngón giữa phải vịn xâu chuỗi. Ngay thẳng thân, ngồi kiết già mà trụ.

Tụng Đại Phật Đảnh Tâm Chú lúc trước một ngàn không trăm tám mươi biến, hoặc năm trăm bốn mươi biến, mỗi mỗi đều bấm xâu chuỗi với thọ trì tất cả Ấn pháp của Thích Ca Phật Đảnh.

Mỗi tháng, ngày một của Nguyệt Sanh?

Ngày trăng sinh ra đến ngày bảy của Nguyệt Sanh, hiến tám cái mâm thức ăn uống, tất cả quả tạp.

Từ góc Đông Bắc an một mâm thức ăn, cửa chánh Đông an một mâm, góc Đông Nam an một mâm, cửa chánh Nam an một mâm, góc Tây Nam an một mâm, trước Tượng ngay trung tâm an một mâm, góc Tây Bắc an một mâm, cửa chánh Bắc an một mâm. Từ ngày tám đến ngày mười năm của tháng, ngày ngày hiến thức ăn như pháp quả trái.

Nếu chẳng thể ngày ngày hiến cúng thì chọn ngày ba của tháng, hoặc ngày năm của tháng, hoặc ngày bảy của tháng nên hiến quả trái.

Ngày tám, ngày mười ba, ngày mười bốn, ngày mười năm của tháng ấy nên hiến thức ăn cúng dường. Nếu có thể ngày một cho đến ngày mười năm của tháng, ngày ngày nối tiếp nhau cúng dường quả trái, mọi loại các va65ty, hương, hoa… là tối thắng bậc nhất. Ngày mười sáu trở đi dùng ngay hương, hoa cúng dường tụng Chú cho đến hết tháng. Mỗi mỗi tháng như vậy.

Này thiện nam tử! làm xâu chuỗi thì dùng vàng, bạc, đồng, thủy tinh, lưu ly, Trầm Thủy Đàn Hương, hạt sen xanh, hạt Anh Lạc.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Như trên đã nói, trong các xâu chuỗi thì thủy tinh là bậc nhất Phật Đảnh Đầu Ấn thứ mười một Dựa theo Phật Đảnh Thân Ấn lúc trước, chỉ sửa hai ngón trỏ gác ngay phía sau ngón giữa, cùng trụ đầu ngón.

Dùng phá tất cả pháp của ngoại đạo với nhóm pháp Chú Thuật của các quỷ thần, thảy đều trừ phá tất cả hoạnh chướng. Chướng nạn xảy ra đột ngột, tất cả việc khó thảy đều tiêu tan.

Tùy theo nơi đã trụ, có các nhóm nạn của thú ác, trùng độc… thì Chú vào hạt cải trắng hòa với tro một trăm lẻ tám biến, hướng về góc Đông Bắc Chú ba biến xong thì một lần rải tán hạt cải. Như vậy tám phương xoạy theo mặt trời chuyển tán thời hết thảy trùng độc thảy đều tiêu diệt.

Tiếp theo, làm Phật Đảnh Chuyển Pháp Luân Phật Đảnh Chuyển Pháp Luân Chú thứ hai mươi.

Dựa theo Phật Đảnh Thân Ấn lúc trước, chỉ sửa dựng thẳng hai ngón trỏ, vịn bên dưới móng tay của hai ngón giữa.

Chú là:

Úm chước ca la dư đãng kê sân đà ni ô hồng, phát sa ha.

Nếu có người thọ trì pháp Luân Ấn Đà La Ni này thì Tam Muội Đà La Ni của tất cả pháp, sức tự tại của pháp mau được thành tựu, khiến cho chánh pháp của Phật trụ lâu ở thế gian, thường hành Bồ Tát Ma Ha Tát Đạo.

Mahā bodhisattva mārga, khởi tâm đại từ giáo hóa chúng sanh, tu tất cả thiện pháp, chặt đứt tất cả ác phá. Đây gọi là Chuyển pháp Luân, diệt trừ tất cả tội, nhóm nhất xiển đề. Icchantika thảy đều tiêu diệt. Tiếp theo, làm Kim Luân Ấn Đế Thù La Thí Kim Luân Ấn Chú thứ hai mươi ba.

Dựng hai ngón út cùng trụ đầu ngón, co lóng giữa của hai ngón vô danh cùng trụ cạnh đầu ngón, kèm dựng hai ngón cái vịn đầu ngón vô danh, dựng hai ngón giữa cùng trụ đầu ngón, co hai ngón trỏ cong lại vịn lưng lóng trên của ngón giữa, ngón trỏ qua lại, hai đầu khủy tay tưởng dính nhau.

Liền nói Chú là:

Úm phù lỗ na ô hồng sa ha.

Nếu người hay thọ trì Ấn Chú này, ắt hay diệt trừ tất cả tội chướng. Tụng Chú mãn bốn mươi vạn biến thì nơi đi đến thảy đều vui vẻ, tất cả giặc oán thảy đều lui tan.

Lại Đế Thù La Thí Kim Luân Phật Đảnh Tâm Pháp Ấn Chú thứ hai mươi bốn.

Dựa theo A Di Đà Chuyển Pháp Luân.

Chỉ sửa ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh của hai tay đều cong lại, dựng hai ngón cái, ngón út, ấn ngay trên trái tim Chú là:

Úm hồng tỳ lam, tỳ lam ô hồng, phát sa ha.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần