Phật Thuyết Kinh Con đường Tu Hành - Phẩm Năm - Thành Hoại Của Năm ấm - Tập Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH CON ĐƯỜNG TU HÀNH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẨM NĂM
THÀNH HOẠI CỦA NĂM ẤM
TẬP MỘT
Kẻ minh trí không phiền Thế Tôn
Điều thuận không ngừng, đạt mục đích
Đã vượt cảnh giới, đến vô biên
Đảnh lễ Thế Tôn, khen vô lượng.
Lời giảng như mặt trời
Chiếu đệ tử như thế
Biết rõ cảnh trần lao
Trừ sợ như hoa héo.
Ngài thấy các khởi, diệt
Rõ, năm ấm thành hoại
Nên cúi đầu lễ Phật
Nghe con giảng lời Ngài.
Người tu hành nên biết sự biến đổi thành hoại của năm ấm.
Sao gọi là nên biết sự thành hoại của năm ấm?
Ví như khi con người sắp chết, vì sự bức bách cho mạng sống chấm dứt, nên trong thân, lần lượt có bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh dần dần kéo đến, thấy nhiều mộng mị, toàn điềm quái đản, lòng khiến sợ hãi kinh hoàng. Mộng thấy ong mật, quạ, chim khách, chim cắt, chim thứu đậu trên đỉnh đầu. Thấy chúng đậu trên nhà vui chơi.
Thân choàng y phục xanh, vàng, trắng, đen, cỡi ngựa chứng, rồi lại kêu lên: Than ôi! Mộng thấy nằm gối trên con chó lớn, lại gối lên con khỉ, nằm ở trên đất. Mộng thấy cùng với người chết, kẻ đồ tể ăn chung một đồ đựng, cùng cỡi xe dạo chơi.
Hoặc dùng dầu mè và bơ, đề hồ, tự bôi trên thân rồi lại uống ăn nó, luôn luôn như thế. Thấy rắn quấn quanh thân kéo lộn xuống nước.
Hoặc tự thấy thân vui mừng, nhảy nhót, vỗ đùi cười giỡn. Hoặc tự thấy mình trang sức rồi tự nằm trên giường, dùng tro bôi mình, rồi lại lấy ăn.
Hoặc thấy kiến bò trên mình. Hoặc thấy ăn muối, chó, khỉ thấy đuổi theo cắn. Hoặc thấy phụ nữ trong làng cúng tế gia thần, thấy nhà ngã đổ, đền thờ các thần tan nát.
Mộng thấy lưỡi cày cày rụng râu tóc. Hoặc có khi răng tự rụng xuống đất, lại mặc năm áo trắng. Hoặc thấy thân mình trần trụi mà đi, dùng dầu mè xoa thân, lăn lộn trong đất.
Mộng thấy mặc ao bằng da, cổ rách rưới. Mộng thấy người khác cỡi xe hư mục đến cửa rước đi. Hoặc thấy các hoa đẹp xông mùi thơm, thân thuộc dùng chúng để làm đẹp thân thể. Tổ tiên vì hiện nhan sắc xanh, đen, nên kêu trước bị bắt. Thường mộng như vậy, dạo chơi trong gò mả lượm xâu chuỗi ngọc đẹp và thấy hoa sen đỏ rơi trên cổ, xô ngã xuống sông lớn bị nước cuốn trôi đi.
Mộng thấy lộn nhào xuống nước năm hồ, chín sông không đáy chẳng bám vào đâu được. Hoặc thấy đi vào rừng rậm không có hoa quả mà còn bị gai gốc móc rách thân thể, bị các thứ ngói đá đè lên thân. Hoặc mộng thấy cây khô trụi không còn cành lá, đu lên trên ấy vui chơi một mình.
Hoặc ở nơi miếu mạo tự nhảy múa. Hoặc thấy rừng cây, thích ở trong đó một mình, vui vẻ cười lớn, bẻ chặt cành khô bó lại ôm đi. Hoặc vào nhà tối chẳng có cửa ra vào. Lại leo lên trong hang núi cao chẳng biết đường ra.
Lại thấy núi lẻ đà lên trên mình, khóc lóc kêu la thảm thiết. Hoặc thấy bầy voi đi đến giẫm đạp trên thân. Mộng thấy bụi đất dính khắp thân, đầu hoặc mặc áo rách đi giữa đồng hoang.
Mộng thấy cỡi cọp chạy rất nhanh. Hoặc cỡi lừa, cho đi về hướng Nam, vào trong gò mả thâu nhặt tro than, móng tóc. Tự thấy mình đội hoa khô đi vào núi lớn, Diêm vương thấy hỏi.
Bài tụng rằng:
Ở đời ham vui thú,
Lâm chung đến mới sợ
Bị khốn trong bệnh tật
Bức bách chẳng an ổn.
Lo sầu đốt cháy tâm
Thấy mộng lòng sợ hãi
Như thấy người ác đuổi,
Lo sợ cũng như vậy.
Người ấy biết rồi, ôm lòng sợ sệt, thân thể run rẩy, mạng sống sắp tàn, thấu rõ như vậy, chẳng ngờ gì nữa, điềm mộng của ta hôm nay từ xưa chưa từng có.
Vì sợ nên lông trên da dựng ngược, bệnh càng nặng thêm, chấn động bất an. Ví như bầy voi mạnh cùng đến giẫm đạp lên cây chuối, bệnh chuyển nặng nằm mẹp trên giường, cũng giống như vậy. Cùng quẫn, chẳng còn cách nào khác là cầu thầy thuốc. Con cháu thân tộc thấy nguy khốn như thế, sai người mời thầy thuốc.
Nơi chốn có thể sai người đi thì thân thể dơ bẩn, áo quần rach rưới, hoặc tóc, móng dài thượt, đội nón rách nát, chân mang guốc bằng gỗ bể, đi khập khểnh, cỡi lên xe mục, sắc mặt đen thui, hai mắt lại xanh, thường dùng tay vuốt râu tóc. Xe bò mà nó cỡi, hoặc xanh hoặc đen, lại có màu trắng, gấp rút kêu thầy, bồng bỏ lên xe.
Bài tụng rằng:
Khi người đi xem chơi
Chỉ vui không điều ích
Buông lung theo sở dục
Chưa từng nghĩ đến thuốc
Thân vừa có bệnh tật
Khốn khổ nằm mẹp giường
Vậy sau mới mời thầy
Muốn khiến trị lành bệnh.
Khi ấy, thầy thuốc dùng ý quán xét biết người bệnh ắt chết.
Vì sao?
Vì thấy hiện tượng quái lạ này: Xem sắc phục, ngôn ngữ của người đến mời, thấy đội nón rách, tóc rối móng dài. Lại nhằm ngày xấu, như ngày mồng bốn, ngày mồng sáu, ngày mười hai, ngày mười bốn. Vì đến vào những ngày này, nên thầy thuốc không vui, vì gặp lúc tinh tú mất đi giờ tốt, là những ngày cấm của Thần Tiên, Tiên Thánh.
Vị thầy thuốc nghĩ: Tuy là gặp điềm kiết hung của tinh tú quái la, nhưng có thể trị liệu được.
Vì sao?
Vì tuy người có bệnh hơi thở thoi thóp, nhưng bổn mạng chưa dứt, tưởng nên chữa khỏi.
Nếu đối với người bệnh chẳng thể chữa lành được thì nói với người ấy: Bất tất phải nhằm ngày tốt, theo sự kiết hung của tinh tú. Vì vậy người trí tuệ chẳng cần nhật lịch để chọn giờ tốt.
Thần tiên thường nói, nên cầu phương tiện hoặc người bị bệnh phong hàn mà nặng chưa dứt, thảng hoặc có hoạnh tử thì có thể chữa trị được. Dù cho mạng phải chết, vô phương cứu chữa, tuy vậy, phải đến cứu chữa còn hơn là không đến. Thầy thuốc nghĩ vậy rồi liền đứng dậy ra đi.
Bài tụng rằng:
Ví như có hai người
Đều khởi hành vào biển
Người sang được bờ kia
Kẻ biệt tăm trong ấy.
Rơi vào biển bệnh tật
Dụ ấy cũng như vậy
Do chứng bệnh sai khác
Mà kẻ sống, người chết.
Khi ấy, vị thấy thuốc kia đã đến nhà người bệnh, thì có điềm xấu, liền nghe tiếng hung dữ: Chết rồi, thiêu đốt, nát tan, vĩnh biệt, lột bỏ, kéo ra, sợ chết lôi, đưa đi, đóng lại, nên để xem đã. Chẳng thể cứu chữa, cho la chết rồi.
Phương Nam, cáo kêu, hoặc nghe tiếng quạ, cú. Hoặc thấy trẻ nít lấy đất dồn lại, đứng trần lôi kéo tóc nhau, đập bể bình chậu và các dồ vật. Thấy những biến trạng này rồi, tới trước thăm hỏi bệnh nhân nằm liệt trên giường.
Bài tụng rằng:
Thầy thuốc xem tướng của người bệnh
Sợ sệt bàng hoàng, chẳng được yên
Hoặc ngồi, hoặc đứng lại nằm mẹp
Phiền muộn, nóng bức tợ đốt da.
Thầy thuốc thấy như vậy liền nghĩ: Như ta xem qua gốc ngọn các mạch thì chắc chắn chết, sắc diện hoảng hốt, mắt chớp, thân thể vàng úa, miệng chảy dãi, mắt lờ đờ, lỗ mũi hếch, vàng, sắc diện nhợt nhạt, chẳng nghe tiếng, mùi, môi khô, lưỡi thụt, dung mạo như đất, trăm mạch rối loạn, lông tóc dựng ngược, nắm tóc véo mũi đều chẳng hay biết, hơi thở chẳng đều, hoặc chậm, hoặc nhanh.
Bài tụng rằng:
Sắc diện thì biến đổi
Tóc lông thì dựng đứng
Xem xét như suy nghĩ
Lưỡi cứng điềm xấu, hiện.
Người bệnh có điềm ấy
Mạng sống thoi thóp thôi
Lửa tật đã bao vây
Như thiêu đốt cỏ khô.
Lại có Kinh khác nói về sự biến đổi của các điềm lạ khi người lâm chung: Dù có tắm rửa, lại như chẳng tắm. Dù đốt các thứ hương tốt như hương thơm của hoa, hương thơm của rễ cây chiên đàn, cây mật, các loại hương này mùi thơm rất tốt nhưng người bệnh nghe chúng như ngửi mùi thiêu đốt phân, tủy, mỡ, da, thịt, móng, lông, tóc, xương của người chết.
Lại như ngửi mùi rắn, chuột, chó, hồ ly, chim cắt, cú, tiếng của người bệnh biến đổi như tiếng ngói bể, tình trạng giống như nghẹt cổ, giọng nói hoặc như tiếng chim hạc, nhạn, khổng tước, trâu, bò, ngựa, hổ, chó sói, tiếng trống, tánh ý của người ấy thay đổi bất thường, hoặc hiện thân ngay thẳng mềm mại, hoac thân thể khô cứng, biến đổi luôn luôn.
Hoặc nhẹ hoặc nặng, chẳng còn biết gì. Đối với các điềm quái lạ này, những người sắp chết, mỗi người gặp một số việc, không cần phải có đủ.
Bài tụng rằng:
Thấy biết bao biến đổi,
Các não đến bức thân
Tâm chí luôn sợ hãi,
Gặp nạn là như thế,
Tánh người tồi như vậy,
Thân biến đổi nhiều thứ
Giống như quả lau, trúc,
Tự sinh, tự nhiên hoại.
Nay theo sự học hỏi, cũng như sự nghe biết của ta thì những điềm quái lạ biến hiện ra khi người sắp chết là miệng chẳng biết vị, tai chẳng nghe tiếng, gân mạch co rút, hơi thở bất định, thân thể đau nhức, rên rỉ, huyết cạn, khí tàn, thân hình gầy yếu, gân cốt lộ ra.
Hoặc thân bỗng nhiên phình ra, huyết mạch tăng lên, má, răng trệ xuống, đầu lắc, trông thấy thật đáng chán, cử động yếu ớt, đồng tử trong mắt đen hơn ngày thường, mắt chẳng nhìn thấy, tiều tiện không thông, chân tay rã rời, các căn chẳng định. Trong mắt, trong miệng hết thanh khí, hơi thở dồn dập, các điềm quái lạ biến đổi hiện ra như thế.
Bài tụng rằng:
Bệnh tật khổ vô cùng
Huyết mạch tinh khí cạn
Như nước xói gốc cây
Nên thường như nhổ gốc.
Khi ấy, thầy thuốc nghĩ: Có bệnh như thế này chắc chết, chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Ngày xưa các lương y sáng tác, kết tập sách thuốc, đối với các bệnh dứt trừ sự sợ hãi, có các vị thuốc tên lÀ Trường Nhĩ, Khôi Chướng, Dưỡng Ngôn, Trưởng Dục, Cấp Giáo, Đa Nhiễm, Thiên Hựu, Trường Cái, Đại Thủ, Thoái Chuyển, Tiều Tụy, Đại Bạch, Tối Tôn, Lệ Diện, Điều Ngưu, Kỳ Bá, Y Hồi, Biến Thước… những vị thuốc ấy đều trị thân bệnh.
Bài tụng rằng:
Với các loại như thế
Pháp quý, Phạm chí, Tiên
Cứu đúng có kết quả,
Và Vua lương y khác.
Quyết định sự thành bại,
Biết rộng vượt được nạn
Thương dùng Kinh cứu mạng,
Như pháp Phạm chí tạo.
Lại có loại thuốc chủ trị về tai mắt, tên là Nhãn Huyền, Động Diêu, Hòa Đấu, Linh Minh, Nguyệt Thị, Anh Tử, Khiếp Tàng, Thiện Giác, Điều Ngưu, Mục Kim, Ngốc Kiêu, Lực Thị, Lôi Minh… những vị thuốc trên chủ trị tai mắt.
Bài tụng rằng:
Những vị thuốc về mắt…
Hòa chế được phân minh
Trừ bệnh hết đui mù
Như Mặt Trời trừ tối.
Lại có loại thuốc về ghẻ chữa lành các mụt nhọt, ghẻ, tên là Pháp Tài, Trĩ Đệ, Đoan Chánh, Từ Ước, Hoàng Kim, Ngôn Đàm. Đó là các vị thuốc chữa trị về ghẻ.
Bài tụng rằng:
Có loại chuyên trị liệu,
Trăm thứ bệnh ghe lở
Có thể trừ các bệnh
Như dùng chân đạp đất.
Cho nên xuất pháp tài,
Tạo Kinh sách cho đời
Chính là trị ghẻ lở
Khiến chúng lìa hoạn nạn.
Lại có thuốc cho trẻ con, tên các vị thuốc ấy là: Tôn Ca Diệp, Kỳ Vức, Phụng Man, Tốc Tật, đó là thuốc trị bệnh cho trẻ con.
Bài tụng rằng:
Ví như có ghẻ đầu,
Bỏ việc, trừ cao ngạo
Nên sinh ở thế tục
Thương xót trị trẻ con
Tôn Ca Diếp các món…
Làm lành dùng chánh pháp
Thương nghĩ đám trẻ thơ
Nên làm ra sách thuốc.
Lại có thuốc về quỷ thần, tên là Đái Hoa, Bất Sự Hỏa. Đó là những vị thuốc trừ diệt quỷ thần đến quấy nhiễu người.
Bài tụng rằng:
Các sao chuyển vần quanh
Đời người cũng như vậy
Có kẻ chủ khủng bố
Mà có nhiều nguy hại.
Tạo lập Kinh Điển ấy
Vì giải tai hoạn kia
Như Phật dùng chánh pháp
Trừ ngu khiến được sáng.
Chánh là để cùng kết hợp các loại thuốc trên đây và để những loại phù phép, thuốc mê, bói toán, chú thuật, chẳng thể làm cho lành, khiến bệnh nhân khỏi chết.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba