Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Hai Mươi Bốn - Phật Nói Chư Phật đại đà La Ni đô Hội đạo Tràng ấn Phẩm - Tập Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐÀ LA NI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẦN HAI MƯƠI BỐN
PHẬT NÓI CHƯ PHẬT ĐẠI ĐÀ LA NI
ĐÔ HỘI ĐẠO TRÀNG ẤN PHẨM
TẬP BA
Tiếp theo, cửa của Đương Viện an tòa của Tô Ma Ha. Tiếp theo, an tòa của Bạt Chiết La Thương Ca La.
Vajra śaṃkhara: Tên là Kim Cang Thiên Nữ. Tiếp theo, an tòa của Ca Nễ Câu Lô Đà. Kaṇi krodha. Tiếp theo, an tòa của Tùy Tâm Kim Cang. Tiếp theo, an tòa của A Mật Lý Đa Quân Trà Lợi. Amṛtakuṇḍalī.
Đương Viện, mặt Tây, phía Nam của cửa an tòa của Ô Ma Địa Tỳ Ma. Tiếp theo, an tòa của Ni Lam Bạt La. Nilāmbara. Tiếp theo, an tòa của Nhất Thiết Thiên. Sarva deva.
Tiếp theo, phía Bắc của cửa ấy an tòa của Ma Hề Thủ La. Maheśvara. Tiếp theo an tòa của Mẫu Uất Đà Tra Khư. Đây là Chánh Vị. Tiếp theo, an tòa của Tỳ Lê Nghê Lợi Tri.
Đương Viện, góc Đông Bắc an tòa của Bà Hấp Tỳ Già. Góc Đông Nam an tòa của Mẫu Uất Đà Tra Ca. Đây là Nhiếp Vị. Góc Tây Nam an tòa của Ca Ni Câu Lô Đà.
Kaṇi krodha: Đây là Nhiếp Vị. Góc Tây Bắc an tòa của Bạt Chiết La Thất Lý Ni. Vajra śrīṇi.
Tiếp theo, đến Ngoại Viện, đầu Bắc của mặt Đông, thứ nhất an tòa của Tỳ Na Dạ Ca. Vināyaka. Tiếp theo, an tòa của Tỳ Đà Gia Đà La. Vidyā dhāra. Tiếp theo, an tòa của Thủ Đà Hội Thiên. Tiếp theo, an tòa của Đề Đầu Lại Tra Dhṛta rāṣṭra Cửa Bắc của Tề Viện an tòa của Đế Thích đệ tử. Indra śiṣya.
Cửa Nam của Tề Viện an tòa của Đế Thích Thiên. Indra deva. Tiếp theo, phía Nam an tòa của Nguyệt Thiên. Candra deva. Tiếp theo, an tòa của Bạt Ma Thiên. Tiếp theo, an tòa của Tinh Thiên. Tiếp theo, an tòa của Phật Sứ Giả. Buddha ceṭa.
Đương Viện, đầu Đông của mặt Bắc, thứ nhất an tòa của Y Sa Na Quỷ Vương Īśāna preta rāja. Tiếp theo, an tòa của Ba La Hề Quỷ. Tiếp theo, an tòa của Già Văn Trà. Cāmuṇḍa. Tiếp theo, an tòa của Lam Tỳ Ca. Lambika Phía Đông của cửa Tề Viện an tòa của Bạt Chiết La Kiện Trà. Vajra ghaṃṭa.
Phía Đông của cửa Tề Viện an tòa của Tỳ Sa Môn Vương. Vaiśravaṇa rāja. Tiếp theo, phía Tây an tòa của Câu Tỳ La Dược Xoa. Kubera yakṣa. Tiếp theo, an tòa của Chiên Đạt Ba La Bà sa Bồ Tát. Caṇḍa prabhāsa bodhisatva. Tiếp theo, an tòa của Ma Ni Bạt Đà. Maṇi bhadra. Tiếp theo, an tòa của Tư Đà Át Tha. Siddhārtha.
Đương Viện, đầu Đông của mặt Nam, thứ nhất an tòa của Hỏa Thiên. Agnideva. Tiếp theo, an tòa của Tỳ Lam Bà Chú Đà. Vilaṃbā śuddha. Tiếp theo, an tòa của Na La Diên. Nārāyaṇa. Tiếp theo, an tòa của Di Lô Thi Khư La Meru śikhara.
Phía Đông của cửa Tề Viện an tòa của Tỳ Lâu Trà Ca. Virūḍhaka.
Phía Tây của cửa Tề Viện an tòa của Diễm Ma Đàn Trà Yama daṇḍa. Tiếp theo, phía Tây an tòa của Diễm Ma đệ tử Yama śiṣya. Tiếp theo, an tòa của Khẩn Na La Vương. Kiṃnara rāja. Tiếp theo, an tòa của Tỳ Xá Già Vương. Piśāca rāja. Tiếp theo, an tòa của La Sát Sa Vương. Rākṣasa rāja.
Đương Viện, phía Nam của cửa ở mặt Tây, thứ nhất an tòa củA Nan Đà Long Vương. Nanda nāga rāja. Tiếp theo, an tòa của Nhật Thiên Āditya deva. Tiếp theo, an tòa của Ma Lợi Chi. Marīci. Tiếp theo, an tòa của A Tố La Vương.
Asura rāja. Tiếp theo, an tòa của Diêm La Vương Yama rāja.
Phía Bắc của cửa Tề Viện an tòa của Ưu Bà Nan Đà Long Vương. Upanandanāga rāja. Tiếp theo, an tòa của Địa Thiên. Pṛthivī deva. Tiếp theo, an tòa của Tỳ Lâu Bác Xoa. Virūpakṣa. Tiếp theo, an tòa của Càn Thát Bà.
Gandharva. Tiếp theo, an tòa của Phong Thiên. Vāyu deva.
Đương Viện, góc Đông Bắc an tòa của Chỉ Lợi Chỉ Lợi Câu Lô Đà. Kilikilikrodha. Góc Đông Nam an tòa của Bạt Chiết La Tê Na. Vajra sena. Góc Tây Nam an tòa của Bà Du Tỳ Già. Vāyu vega. Góc Tây Bắc an tòa của Bạt Chiết La Thi Khư La. Vajra śikhara.
Như trước đã nói trong ba lớp viện đều trừ nhiếp vị của bốn góc, ngoài ra theo thứ tự đều làm riêng tòa hoa sen lược nói Đàn Pháp mười hai khuỷu tay xong. Mười sáu khuỷu tay ấy như trong hình vẽ.
Đồ nói: Số tòa, vị trí nhiều ít, khoảng cách rộng hẹp… tùy theo vật cúng của Thí Chủ nhiều ít rồi thêm bớt mà làm. Đây gọi là Pháp Hạ Phương Trang Nghiêm Tiếp theo, ở trong lò lửa dùng phấn đỏ trắng xoa bôi tô điểm hoa sen.
Tiếp theo ở Đông Bắc của Đàn, nơi đất có thể rộng bốn xích 4/3m làm cái Đàn bốn khuỷu tay. Trên Đàn thuần dùng hai loại phấn màu đỏ, màu trắng làm lối đi giới hạn. Giới đạo kèm làm tòa hoa sen tiếp theo ở Trung Đình. Gian nhà ở chính giữa trên Đàn Quán Đảnh chỉ dùng phấn trắng làm lối đi giới hạn một màu, làm tòa hoa sen, mọi loại an trí đất của các vị trí xong.
A Xà Lê đứng dậy, ở trước cửa Tây nhìn xem các tòa, phần vị bên trong Đàn: Chỗ nào là tốt, chỗ nào chưa tốt, chỗ nào giáp vòng, chỗ nào chẳng giáp vòng, xem xét kỹ lưỡng, nơi nào chẳng đầy đủ thì sửa sang lại. Lại làm một biến đại kết giới pháp, cầm Bạt Chiết La.
Chày Kim Cang mọi loại kết hộ nói pháp trang nghiêm ngày thứ sáu xong tiếp theo, ngày thứ bảy: A Xà Lê dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới, để cái bọc màu vàng ba xích 1m ở đảnh đầu của mình, sau đó dùng lụa đào bốn xích 4/3m quấn quanh trán, cột buộc cái đầu, gọi là pháp đầu đội mão Trời.
Tiếp theo, dùng sợi dây Chú năm màu đã kết lúc trước, cột buộc bên dưới cổ tay, cánh tay xong. Liền làm Mã Đầu Hộ Thân Ấn Chú ấn ngay trên thân của mình, rồi vào Đạo Tràng.
Tiếp theo, cầm Bạt Chiết La. Chày Kim Cang, liền làm Kim Cang Quân Trà Lợi Đẳng Đại Thân Ấn Chú, ba hồi chuyển theo bên phải, ở bên ngoài Đàn, mọi loại làm pháp.
Tiếp theo, lại làm Mã Đầu Quán Thế Âm Ấn kèm tụng Mã Đầu Quán Thế Âm Chú kết Thập Phương Giới.
Tiếp theo lấy cái bình, cái chậu rửa tay?
Cái lọ bằng vàng bạc, mỗi mỗi đều chứa đầy nước sạch xong, trong mỗi một cái chậu?
Cái lọ để chút Ngũ Cốc kèm Long Não Hương với lụa lúc trước bọc gói vật bảy báu xong.
Liền đem cành Liễu, cành trúc, cành Lê, cành Bách đều kèm với lá… cắm vào miệng các cái bình, cái chậu?
Cái lọ… vẫn ló đầu dây gói bọc bảy báu ra ngoài.
Khi nghĩ định Quán Đảnh thời mỗi một đệ tự nâng giữ báu này. Ở trong chỗ cắm của mỗi một lọ nước đều để một hạt Thạch Lựu xong, trong chỗ cắm của mỗi một lọ nước đều dùng ba xích 1m lụa sống cột buộc cánh lá ấy.
Tiếp theo, lấy bốn mâm báu: Trong hai mâm bằng vàng chứa đầy nước thơm, trong hai mâm bằng bạc chứa đầy hoa tạp.
Tiếp theo, đem mọi loại cây có hoa quả báu, mỗi mỗi cắm bày, dựng an trên Đàn.
Tiếp theo, lấy mười cây đuốc báu năm màu, an trên chân đế bằng đồng, xếp thàng hàng ở Đường Môn. Cửa của gian nhà chính bên trong vòng vây của sợi dây.
Tiếp theo, bày đủ mâm thức ăn ở trên cái mâm bằng đồng, trong mỗi một mâm đều chứa đủ mọi loại quả, thức ăn, quả trái thượng diệu, Thạch Mật, Bồ Đào, đường cát, bơ, mật, sữa, cháo…
Tiếp theo, bày đủ chén đèn, mỗi mỗi để dầu, mỗi mỗi đều thắp đèn.
Tiếp theo, bày đủ lá vàng, bạc hợp với Sa La và cái bát bằng đồng… chứa đầy bơ, mật, dầu thơm, hoa tạp kèm sợi dây Chú ấy, hạt cải trắng, Hồ Ma Nhân, hoa lúa gạo, nước tám công đức… tùy theo chỗ ứng ấy thảy đều nghiêm bị, kèm với lư hương bằng đồng và đồ dùng báu. Chính giữa, bốn cửa mỗi mỗi đều có một đồ dùng.
Tiếp theo, bày đủ sáu mâm thức ăn, bánh có vị lạt, nhóm bánh nấu bằng dầu… mọi loại chuẩn bị đủ, đều có hai mươi cái, tất cả đều giã nhỏ hòa với nhóm cháo sữa, quả trái tạp… hết thảy hòa với nhau, chứa đầy ở trong một mâm, nghĩ định thiêu đốt cúng dường.
Tiếp theo, đem bơ, mật, sữa, lạc, dầu trong đều chứa đầy trong vật khí.
Tiếp theo, bày đủ một thăng một lít nước tương Mật ở trong cái bát bằng đồng, kèm để cái muỗng bằng bạc.
Tiếp theo, nấu chín ngũ cốc: Tiểu Đậu, Thanh Khoa, Đại Mạch, Cốc, Đại Mạch chứa đầy trong cái giỏ, kèm để một cái muỗng ở trước mặt gian nhà chính.
Tiếp theo, thêm hai cái Táo quán. Lọ nước dùng rửa tay, súc miệng bằng đồng, một cái nghĩ định dùng cho thứ sạch sẽ, một cái nghĩ dùng cho thứ dơ bẩn.
Tiếp theo, bày đủ củi Cốc, Tùng Minh. Dầu mỡ của cây thông trên núi, ngọn đuốc thông, than … hết thảy nghĩ định vào trong Đạo Tràng dùng, thảy đều nghiêm chỉnh để hai bên ở ngoài cửa của gian nhà chính, bên trong vòng dây.
Tiếp theo, A Xà Lê mỗi mỗi xem kỹ đầy đủ xong chưa, đều dùng tay vượt qua, đi vào bên trong vòng dây. Bên ngày, rải hương hoa, nước tám công đức xếp bày ở phía Tây của cửa. Xếp bày nến, đuốc, mâm thức ăn, đèn, than… ở phía Đông của cửa.
Tiếp theo, hai Bộ Thanh nhạc: Trường Địch. Cây sáo dài thổi ngang, Tiêu. Cây sáo thổi dọc, sanh. Cái sênh, Tất Lật. Một loại kèn, Tỳ Bà. Một loại đàn, Kích Trúc hai mảnh tre gõ vào nhau, Không Hầu.
Vīṇā: Một loại đàn, Phương Hưởng. Một loại Khánh, Tranh. Cây đàn Tranh, Diệp. Lá cuốn lại để thổi ra tiếng, Đồng Bạt.
Cái chũm chọe bằng đồng… Đều đủ hai việc?
Hai cái.
Ngay ở hai bên phía Đông của cửa Đạo Tràng, bày tòa ngồi đối nhau. Lại sai hai đệ tử vào bên trong Đạo Tràng, gần tường phía Tây, bày cái đệm bện bằng lông ở bên dưới. Như vậy, bày biện xong.
Tiếp theo, A Xà Lê ở hai phía Đông, Tây của cửa lại làm việc pháp hộ trì khiến cho an định, đừng để cho một người nào đền chỗ ấy gây rối loạn vị trí, tòa ngồi.
Tiếp theo, A Xà Lê sai các đồ chúng dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới, đều hướng vào trung đình của Đạo Tràng xếp bày tòa ngồi. Khi đến giờ Dậy thời A Xà Lê đi ra bên ngoài gian nhà chính.
Đường, tay bưng lư hương vào trong Đạo Tràng, nhiễu quanh theo bên phải một vòng, hành đạo xong rồi lễ ba lạy, sau đó buông lư hương xuống, tự tay mình lấy một lọ nước bằng vàng, đến cửa Tây của Đàn, quỳ gối, chí Tâm tụng Quán Thế Âm Thập Nhất Diện Bồ Tát Chú một trăm lẻ tám biến.
Nếu thỉnh Chư Phật làm Tòa Chủ thì tùy theo Đương Bộ ấy, đều tụng Bản Chú một trăm lẻ tám biến. Vào Đàn buông ra để trên vị trí của Tòa Chủ. Nối tiếp theo sau, đệ tử nâng mỗi một cái lọ đưa cho A Xà Lê.
Tiếp theo, ở Nội Viện: Bốn góc, mặt Đông, chính giữa đều để một lọ.
Lại ở Ngoại Viện: Bốn góc đều để một lọ.
Lại nữa, Ngoại Viện: Cửa Đông, Nam, Bắc đều để một lọ. Hai bên trái phải cửa Tây của Đàn ấy đều để một lọ.
Cái lọ tại cửa Tây: Ở trên cành tạp quấn chỉ năm màu, nghĩ lường vây quanh Đạo Tràng một vòng. Đã so lường xong, liền kép sợi chỉ ấy nhiễu vòng quanh Đạo Tràng một vòng.
Tiếp theo, đem cây báu vào ở Nội Viện, trên vị trí của Tòa Chủ. Nên ở bốn góc đều để một cây. Ngay giữa bốn cửa đều để một cây.
Tiếp theo, để một cây riêng ở tòa để lụa màu tạp, hoa, quả, cây…
Lại đem đuốc báu năm màu nên ở Nội Viện, trước vị trí của Tòa Chủ để cây đuốc Tam Bảo.
Nên ở Ngoại Viện: Bốn góc, chính giữa, trên vị trí của Tôn Giả đều để một cây đuốc.
Ngoại Viện: bốn góc đều để một cây đuốc.
Tiếp theo, để lửa đèn.
Trước tiên, ở Nội Viện: Bốn góc, gần vị trí của Tòa Chủ an bốn chén đèn, Tòa còn lại đều để riêng bốn chén đèn.
Tiếp theo để nhóm mâm chứa mọi loại hương hoa. Tiếp theo, để mâm thức ăn.
Trước tiên, ở Nội Viện: Trước vị trí của Tòa Chủ để bốn mâm thức ăn, trước Tòa còn lại đều để một mâm. Tiếp theo, để Sấn Thí.
Dakṣiṇā: Cho giúp, bố thí.
Vị trí của Chư Phật ấy với vị trí của bát nhã đều để nhóm vật: Vàng, gấm cực tốt, vải lụa đẹp. Trước mặt các Bồ Tát đều để bạc, lụa mỏng có hoa tạp, lụa màu, vật có màu sắc bậc thượng. Trước mặt Kim Cang đều để tiền đồng, vòng hoa, lụa màu. Trước mặt Chư Thiên đều để tiền, vật có một màu. Nhóm vật báu ấy tùy theo ý của thí chủ bố thí nhiều ít.
Ngày giải tán Đạo Tràng: Đem vật trước mặt Phật ấy sung làm việc Phật, vật trước mặt Bát Nhã dùng chép Kinh Bát Nhã với các nhóm Kinh, vật của các Bồ Tát thì để cho Bồ Tát dùng, vật của Kim Cang ấy với vật của Chư Thiên thì để cho A Xà Lê, vẫn như pháp dùng. Mãu đội đầu ấy, lụa với hai cái dù lọng kèm lục cột buộc lọ nước cũng để cho A Xà Lê dùng.
Tiếp theo, nghiêm lư hương lớn.
Trước tiên, ở Nội Viện: Trước vị trí của Tòa Chủ để một lư hương xong.
Tiếp theo, Ngoại Viện: Ngay chỗ của bốn cửa để một lư hương.
Lại ở Ngoại Viện: Ngay nơi bốn cửa đều để một lư hương.
Tiếp theo, ở cửa Tây: Gần bên cái lọ nước để lư hương lớn, nghĩ định A Xà Lê nâng lên đi đến làm việc pháp dùng.
Riêng mỗi lư đều thiêu đốt mọi loại Diệu Hương đều khiến phát ra khói.
Tiếp theo, ở bên lò lửa để một lọ nước, cũng để một mâm thức ăn với một cái đèn.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba