Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Mười Ba - Kim Cang Tạng Quân Trà Lợi Bồ Tát Tự Tại Thần Lực Pháp ấn Chú Phẩm - Tập Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐÀ LA NI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẦN MƯỜI BA
KIM CANG TẠNG QUÂN
TRÀ LỢI BỒ TÁT TỰ TẠI
THẦN LỰC PHÁP ẤN CHÚ PHẨM
TẬP BA
Sau này, tùy theo tâm: Chỗ làm đều thành, trị bệnh rất hiệu nghiệm, hàng phục tất cả ma ác, quỷ thần… người ác, phi nhân chẳng thể gây hại.
Quân Trà Lợi Tam Ma Gia Đại kết giới Pháp Ấn Chú thứ hai mươi sáu. Cụng gọi là Nhất Thiết Phật Ma Ha Tam Muội Gia Ấn Chú.
Đem hai ngón út, hai ngón vô danh giao chéo nhau, bên phải đè bên trái, duỗi thẳng ngay trong lòng bàn tay. Dựng thẳng hai ngón giữa, duỗi nghiêng thẳng đầu ngón cùng trụ nhau. Đều co hai ngón trỏ vịn lưng lóng thứ ba của ngón giữa. Đem hai ngón cái cùng phụ cạnh bên hai ngón trỏ. Mở lòng bàn tay.
Chú là: Úm thương ca lễ ma ha tam muội diệm bàn đà bàn đà sa ha.
Pháp Ấn Chú này. Nếu nơi có lập Đạo Tràng Đàn, thỉnh tất cả Phật, Bát Nhã Bồ Tát, Kim Cang, Chư Thiên… muốn cúng dường. Nếu chúng Thánh đến thĩ mỗi mỗi đều làm Hoa Tòa Ấn nghiêng đón, an trí Bản Vị hết thảy xong, sau đó làm pháp Ấn này, tụng Chú. Đem Ấn chuyển theo bên phải ba biến, bảy biến đều được xưng là Tĩnh Cảnh. Đây gọi là Pháp Nội Ngoại Nghiêm Mật, làm pháp này xong, chúng Thánh đều ngồi yên nhận cúng dường.
Chú Sư chẳng hiểu pháp này thì phần lớn có các Ma ác, Thần, Ngoại Quỷ, Tỳ Na Dạ Ca… được dịp thuận tiện, tức chẳng an ổn.
Trị bệnh cũng thế, làm mọi loại việc Pháp cúng dường, hết thảy việc đã xong, lại làm Ấn này, lại Chú bảy biến, chỉ tụng Chú lúc trước Bàn Đà Bàn Đà.
BANDHA BANDHA: Cột trói, cột trói, tiếp theo bên dưới lại gia thêm Văn Xà Văn Xà.
BHAṂJA BHAṂJA: Phá hoại, giáng phục rồi bắt đầu nói Sa Ha.
SVĀHĀ: Quyết định thành tựu. Đem Ấn chuyển theo bên trái, chuyển đến ba vòng, rụng Chú bảy biến. Đây gọi lả Giải Tán cũng gọi là Khai Tỏa. Mở xiềng xích.
Nếu chẳng y theo Pháp này dùng thì Chú Sư bị tai ương. Ví như Quốc Vương ra lệnh cho các quần thần làm Yến Hội, khiến các binh tướng canh giữ ngã tư đường, cửa nhà nghiêm mật, không có người được vào. Việc xong thì giải tán, cũng lại như vậy.
Quân Trà Lợi Sứ Giả Pháp Ấn Chú thứ hai mươi bảy:
Ấn cùng đồng với Bát Nhã Sứ Giả Ấn, đưa ngón cái qua lại.
Chú là:
Úm hộ lỗ hộ lỗ yết la xà yết la xà ha ha ha na sa ha.
Một Pháp Chú này. Nếu muốn sai vị Sứ Giả ấy trị bệnh, liền tụng Chú này. Nếu muốn lưu giữ vị Sứ Giả xem xét bệnh thì cũng tụng Chú này.
Nếu dùng Pháp Quân Trà Lợi trị bệnh thời liền sai Sứ Giả xem xét người bệnh ấy. Nếu Quân Trà Lợi trụ thì Sứ Giả được đi, nếu Quân Trà Lợi đi thì Sứ Giả được trụ lại, như vậy trợ nhau thảy đều có nghiệm Quân Trà Lợi Kim Cang Thọ Pháp Đàn.
Nếu muốn thọ trì pháp Quân Trà Lợi. Trước tiên vẽ Tượng ấy, toàn thân màu xanh, hai mắt đều đỏ, quấn tóc thành búi, tóc trên đầu ấy có màu đỏ, đen giao tạp như đám lửa tam muội, trợn mắt rất giận dữ, răng bên trên đều lộ ra rồi cắn môi bên dưới, làm mặt rất giận dữ. Có hai con rắn giao đầu nhau, rũ ngay trước ngực, ngóc đầu hướng lên trên, đuôi của hai con rắn ấy xuyên qua tai Tượng, rũ đầu đuôi xuống dưới đền ở trên vai, hai con rắn ấy có màu đỏ, đen xen lẫn như con rắn Hoàng Hầu.
Tượng ấy có tám cánh tay.
Bên phải: Tay cao nhất cầm Bạt Chiết La. Chày Kim Cang co cánh tay hướng lên trên, tay thứ hai cầm cây kích dài chống trụ, co cánh tay hướng lên trên, trên dưới cây kích đó đều có ba chia đều có mũi nhọn, một đầu hướng lên trên, một đầu trụ nơi đất.
Cánh tay thứ ba bên dưới đè cánh tay thứ ba bên trái, hai cánh tay giao chéo nhau ở ngay trên ngực, trong bàn tay phải cầm hai con rắn đỏ, rắn ấy giao nhau đū hướng lên mặt Tượng, tay trái cũng cầm một đầu rắn đỏ.
Hai tay đều làm Bạt Chiết La Ấn: Hai tay đem ngón cái đều vịn trên móng ngón út, đều duỗi ngón còn lại, liền đem tay trái đè trước nách phải, tiếp theo đem tay phải đè trước nách trái, tức là thân ấn. Cánh tay thứ tư bên dưới ngữa rũ xuống bên dưới, đừng dính háng bên phải, đều duỗi năm ngón tay làm tay thí vô úy.
Bên trái: Trong tay bên trên cầm hình bánh xe vàng. Kim luân, co cánh tay hướng lên trên, bánh xe có tám góc đầy đủ đùm, vành, tay thứ nhất bên dưới đem ba ngón từ ngón giữa trở xuống đều co hướng về lòng bàn tay, ngón cái vịn cạnh lóng trên của ngón giữa, dựng thẳng ngón trỏ hướng lên trên duỗi, co khuỷu cánh tay ấy, hướng bàn tay, cánh tay về bên trái. Tay thừ tư bên dưới để ngang che háng trái, hướng đầu ngón tay về bên phải.
Trong tám cổ tay đều đeo vòng xuyến vàng, dùng đất màu tím rải hoa, có Thiên y gấm quấn bắp tay, cổ, lưng khiến đầu của Thiên Y ấy chia ra hai bên trái phải đều rũ hướng xuống dưới. Dùng màu xanh lục biểu thị cho thịt, dây lưng bọc màu hồng quần eo lưng ấy. Dùng da cọp với gấm căng che hai háng ấy, hai cẳng chân đều có con rắn đỏ quấn cẳng chân ấy, hai con rắn ấy có màu đỏ, đen xen lẫn. Lại để Tượng ấy đứng ở trên hai hoa sen bảy báu. Ngón chân phải ấy lại hướng về bên phải, ngón chân trái ấy lại hướng về bên trái.
Bên trái Tượng ấy, từ mắt cá chân trở xuống, vẽ một vị Quỷ Vương, thân tựa hình người, ngoại dung thô kệch to lớn, làm đầu voi trắng, co đầu gối quỳ ngồi, ngẩng đầu hướng lên trên chiêm ngưỡng dung nhan của Tượng. Vị Quỷ ấy có tay phải cầm củ La Bặc. Củ cải, co cánh tay hướng lên trên. Tay trái co bằng, giương bàn tay ngửa lòng bàn tay cầm viên hoan hỷ.
Hai cổ tay ấy đều đeo vòng xuyến vàng, dưới cổ của Quỷ ấy đeo Anh Lạc vàng, đem dây đai màu xanh lục cột buộc trên eo lưng ấy, dùng gấm màu mây hồng lúc bình minh căng che hai háng.
Vẽ Tượng này xong, chọn một phòng sạch sẽ, Phật Đường cũng được… nên ở trong ấy đốt hương khải bạch. Đào xuống loại bỏ đất ác, gạch, đá, phân… lại đem đất màu vàng sạch từ nơi khác đến lấp đầy chỗ đào xới ấy, đầm nện chặt cứng, khiến cho bốn mắt bẳng phẳng ngay ngắn.
Chú Sư liền dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới. Vị Thí Chủ. Dānapati cũng thế, cùng dựng lập Đạo Tràng sám hối tội chướng thọ pháp.
Đất Đạo Tràng ấy, trước tiên dùng bùn hương xoa bôi một lần, tiếp theo liền kết giới, làm việc pháp xong. Tiếp theo, dùng cây Khư Đà La làm bốn cây cọc, mỗi cây đều dài khoảng tám ngón tay, dùng Đại Tâm Chú chú vào từng cây cọc một trăm lẻ tám biến, liền đóng ở bốn góc của đất ấy. Cây cọc ở bốn góc ấy, một lần đóng xong thì sau này vĩnh viễn đừng nhỏ bỏ.
Chú vào hạt cải trắng cũng lại như vậy. Liền ở bốn phương với chính giữa ấy đều xuyên làm một lỗ hổng sâu khoảng một gang tay rồi chôn hạt cải ấy xuống, sau đó dùng phân bò hòa với nước nóng thơm xong, lại xoa bôi đất ấy, xoa bôi một lần xong lại kết giới.
Tiếp theo, lập Đạo Tràng rộng hẹp tùy theo ý, treo các phan, lọng với các vật báu khiến rất nghiêm tịnh. Lại làm một biến kết giới, việc Pháp… Liền đem chút phần hương hoa cúng dường, hành Đạo xong rồi, phát khiển Kim Cang.
Đã phát khiển xong, nên ở trong Đạo Tràng dùng năm màu làm pháp Đàn bốn khuỷu tay, nói năm màu là: Một là trắng, hai là vàng, ba là đỏ, bốn là xanh, năm là đen.
Khi muốn làm Đàn thời lại đem mọi loại hương nổi tiếng hòa với nước. Dùng Đại Tâm Chú chú vào nước hương ấy một trăm lẻ tám biến, dùng xoa bôi đất ấy, đợi cho khô hẳn, liền dùng sội dây phấn mà ghép ráp đất ấy. Bốn phương ngay ngắn làm quy giới xong, trước tiên hạ phấn trắng, tiếp đến màu vàng, sau đến màu đỏ, tiếp đến màu xanh, sau đến màu đen.
Chính giữa Đàn làm tòa hoa sen, an hình tượng Quân Trà Lợi Kim Cang. Mặt Đông an trí ba Bạt Chiết La. Chày Kim Cang. Mặt nam, mặt Bắc cũng như mặt Đông… bốn góc đều an hai Bạt Chiết La giao chéo nhau. Như hình chữ Thập. Ở bên trong cửa Tây, hai bên Nam Bắc đều an trí riêng hai Bạt Chiết La.
Trên ấy đều an thức ăn uống cúng dường.
Thức ăn ấy đều cần mọi loại bánh, quả… đầy đủ mười mâm: bốn mâm ở bốn mặt, bốn mâm ở bốn góc, một mâm ở chính giữa, một mâm ở bên ngoài bố thí cho tất cả các hàng quỷ thần.
Hai mươi năm chén đèn, nếu chẳng làm nổi thì dùng mười sáu chén đèn: Bốn góc ở chính giữa đều để một chén đèn, bốn góc ở ngoại viện đều để một chén đèn, hai bên của bốn cửa đều để một chén đèn bốn góc đều dựng một cây đao lớn, ngay trong bốn cửa đều dựng một mũi tên, chính giữa để ngửa một mặt gương sáng. Chú Sư ở tại cửa Tây, ngồi hướng mặt về phương Đông.
Bên phía Nam của Chú Sư an một lò lửa, nghĩ định thiêu đốt nhóm vật: Bơ, mật, sữa, lạc, mè, gạo tẻ…
Trước mặt Chú Sư trải bày an bố sạch sẽ xong, trên chỗ an bố an trí mọi loại hương hoa với thức ăn uống… hết thảy an trí xong, lại kết giới xong, Chú Sư tụng Chú ấn vào lư hương ấy, tay bưng lư hương, đốt hương khải bạch… pháp dùng như lúc trước, liền làm nhóm pháp: Hộ thân, tịch trừ, kết giới, thỉnh triệu mỗi mỗi y như Thập Nhất Diện nói lúc trước.
Liền bưng lư hương, trước tiên nên cúng dường Đức Phật A Di Đà. Tiếp theo nên cúng dường tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Chư Thiên, Phạm Thích Thiên Vương ở phương Đông, cho đến mười phương cũng lại như vậy. Hết thảy cúng dường xong, buông lư hương xuống, chí tâm lễ ba lễ.
Tiếp theo, rải tán tất cả hương hoa thượng diệu. Tiếp theo, nên hành đạo. Tiếp theo, thiêu đốt nhóm vật: Bơ, mật, thức ăn uống… mà làm cúng dường.
Nếu ngày ngày ấy không có nhóm vật: Hương hoa, thức ăn uống có thể cúng dường thì liền làm Ấn của tất cả cúng dường mà cúng dường.
Ấn ấy như Bát Nhã Bộ lúc trước nói Chú là:
Úm tát bà bồ đà, a đề sắt sỉ đế tất phả la hề mê già già na kiếm sa man đà sa ha.
Tiếp theo, làm Bát Nhã Ấn để dính ngay trên trái tim, miệng nói tội mà ba nghiệp đã phạm, tỏ bày sám hối.
Ngồi ngay ngắn chẳng động, luôn luôn lễ Phật, miệng khen ngợi rằng: Chư Phật: Trí tuệ, đại dũng tinh tấn, sức Na La Diên, hàng công đức của nhóm bát nhã Ba la mật đa.
Tiếp theo, phát nguyện rằng: Nguyện chúng con, nếu ở trong cõi người thường nghe pháp đại thừa với Pháp Tạng của nhóm Đà La Ni Ấn, chẳng thấy việc ác, chẳng nghe Pháp ác, chẳng gặp nhóm ngoại đạo, các người ác, chẳng gặp chín cái chết bất thường. Cửu hoạnh. Nếu khi hết mạng thời tùy ý vãng sanh về Tịnh Thổ ở mười phương, thường thấy Chư Phật. Tất cả chúng sanh cũng lại như vậy.
Phát Niệm này xong, tụng Đại Tâm Chú một ngàn không trăm lẻ tám biến với theo thứ tự làm pháp Ấn của Đương Bộ mà làm cúng dường.
Từ đây về sau, ngày ngày mỗi sáng sớm, lau rửa tay, mặt xong, miệng nhai nhấm cành Dương xỉa răng sạch sẽ xong, tụng Tiểu Tâm Chú chú vào nước trong bàn tay mãn bảy biến xong, hướng về phương Đông rải tán, như vậy ba lần, sau đó lại Chú vào nước sạch trong bàn tay, mãn bảy biến xong rưới rải trên đầu, sau đó tắm gội. Nếu Duyên Sự ấy chẳng tắm gội được thì làm thẳng việc pháp rưới vảy nước kết tịnh. Sau đó vào phòng, làm Hộ Thân xong, vào trong Đại Tràng cúng dường như vậy.
Nếu ngày ngày chẳng thể bày biện thức ăn uống, không dùng hương hoa… thì làm Cúng Dường Ấn cúng dường cũng được, cốt yếu nên ban đêm riêng một thời cúng dường, ngày riêng ba thời tụng Chú, cho đến trọn đủ một trăm vạn biến.
Số trọn đủ xong, giải tán Pháp Đàn. Lại làm bùn nghiêm sức như lúc bắt đầu, an trí Pháp dụng, một đêm cúng dường làm pháp… việc xong, lấy lọ nước ở chính giữa Đàn, nâng lên đi ra bên ngoài cửa Tân của Đạo Tràng. Lại nữa, làm riêng một cái Đàn vuông nhỏ, trên Đàn an trí một cái giường nhỏ, khiến người nhận pháp ngồi trên cái giường. Để lọ nước ở trên đảnh đầu người nhập pháp, ngay lúc quán đảnh thời người nhận pháp ấy dùng tâm, miệng phát nguyện.
Quán Đảnh xong rồi, mặc áo vào bên trong Đạo Tràng, mỗi mỗi theo thứ tự làm Ấn phát khiển. Thế nên thường được Quân Trà Lợi Kim Cang hộ niệm, tất cả hành dụng đều có linh nghiệm.
Quân Trà Lợi Kim Cang Cứu Bệnh Pháp Đàn.
Nếu người bị quỷ thần gây bệnh. Ở nhà của người bệnh, như pháp trang nghiêm Đạo Tràng xong rồi, liền mặc quần áo cực tốt của Thí Chủ, cùng làm cái Đàn hai màu rộng bốn khuỷu tay, một là màu trắng, hai là màu đỏ. Đàn mở bốn cửa, năm phương đều vẽ hai Bạt Chiết La.
Giao chéo nhau thành hình chữ Thập, bốn góc của Đàn ấy đều dựng một cây đao dài, bốn cửa đều dựng một mũi tên tốt, chính giữa an một mặt gương ngửa lên, bày mười mâm thức ăn uống: bốn mâm ở bốn mặt, bốn mâm ở góc, một mâm ở chính giữa, một mâm bên ngoài Đàn bố thí cho tất cả quỷ thần, mười hai chén đèn, một nước hương Sa La.
Bên ngoài Đàn, phía Tây Nam tô trét riêng một cái Đàn tròn nhỏ, để một mâm thức ăn, an một chén đèn cho tất cả quỷ thần.
Chính giữa cái Đàn lớn để một lọ nước chứa đầy nước sạch. Đem lá Bách xanh, lá Trúc Liễu xanh… dùng lụa sống cột buộc rồi cắm vào miệng cái lọ ấy. Hạn trong ba ngày, ở chỗ của Đàn tụng Đại Chú lúc trước. Dùng bệnh nhân khỏi bệnh, làm hạn định, liền ngưng. Chỉ đốt An Tất Hương.
Nếu chẳng tụng Chú thì đưa người bệnh trở lại phòng. Nếu tụng Chú thời lại vào bên trong Đàn, Chú Sư với người bệnh đều dứt tất cả rượu, thịt, năm tân… nếu ăn thứ ấy thì làm pháp chẳng thành.
Nếu chẳng như pháp, chẳng Tịnh Khiết thì cả hai người: Chú Sư, người bệnh đều bị Tỳ Na Dạ Ca Quỷ Vương đánh… chẳng thể tịch trừ, chẳng như nguyên lai, chẳng làm pháp được.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Ba Pháp Quán Bảy Xứ - Kinh Số Mười Tám
Phật Thuyết Kinh Như Lai Hưng Hiển - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Bốn Mươi Bốn - Phẩm Chúng Dụ - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Năm Mươi Ba - Phẩm Khéo Học - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Lạc - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Năm Phật đảnh Tam Muội đà La Ni - Phẩm Một - Phẩm Tựa