Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Mười Ba - Kim Cang Tạng Quân Trà Lợi Bồ Tát Tự Tại Thần Lực Pháp ấn Chú Phẩm - Tập Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐÀ LA NI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẦN MƯỜI BA
KIM CANG TẠNG QUÂN
TRÀ LỢI BỒ TÁT TỰ TẠI
THẦN LỰC PHÁP ẤN CHÚ PHẨM
TẬP HAI
Quân Trà Lợi Đảnh Pháp Ấn thứ mười bốn. Dùng Đại Tâm Chú.
Dựa theo Thân Ấn lúc trước. Chỉ sửa hai ngón trỏ đều bật ngay trên lưng ngón giữa, đầu ngón trụ nhau. Ngón giữa ở ngay bên trong.
Một pháp ấn này cũng có tên là Phược Quỷ Ấn. Nếu làm Ấn này, tùy ý muốn cột trói thì tất cả quỷ thần ứng thời bị cột trói, bệnh Quỷ liền khỏi. Nếu muốn buông tha, thì cởi mở ngón trỏ để bên trong ngón giữa đưa đi, dùng tâm tưởng buông tha liền được giải thoát.
Nếu có người bị bệnh đau đầu. Làm Ấn này xong, ấn vào chỗ đau ấy, tụng Đại Tâm Chú, lại Chú vào cành Liễu đánh vào chỗ đau nhức ấy thì sự đau nhức ấy liền khỏi.
Quân Trà Lợi Nha Pháp Ấn Chú thứ mười năm. Dùng Đại Tâm Chú chú vào bệnh cũng được.
Tay trái đem ngón út bật trên lưng gốc ngón vô danh. Tiếp theo, co ngón giữa từ sau ngón vô danh vật đè trên lưng ngón út, lại co lóng bên trên, cùng dính bên cạnh ngón vô danh.
Tiếp theo, co lóng giữa của ngón trỏ đè dính móng ngón út hướng đầu ngón về lòng bàn tay, cùng dính bên cạnh ngón vô danh.
Tiếp theo, nghiêng ngón cái đè ép trên đầu với móng hai ngón tay ở giữa cũng cùng dính bên cạnh ngón vô danh. Dựng thẳng ngón vô danh hướng lên trên.
Trừ bỏ tất cả Tỳ Na Dạ Ca thì làm Ấn này, Chú bảy biến, ba hồi chuyển theo bên phải, tay phải nắm quyền đánh, chuyển quyển Chú là:
Úm ô hồng ha na, đỗ na mạt tha, tì xà kết xá dạ la tha dạ phất.
Pháp Ấn Chú này. Nếu người bị bệnh đau tim, Quỷ Chú với loài ác bậc trung. Liền làm Ấn này ấn vào chỗ đau, liền tụng Chú này bốn mươi chín biến thì sự đau nhức ấy liền khỏi. Hoặc tụng Đại Tâm Chú bốn mươi chín biến thì sự đau nhức ấy liền khỏi. Pháp này rất hiệu nghiệm.
Nếu trị bệnh Quỷ. Khi cột trói Quỷ thời trong miệng của người bệnh liền nôn ra máu. Trị tất cả bệnh.
Nếu dùng Nha Ấn luôn luôn tụng Chú hướng vễ chỗ của quan phủ thì quan nhân vui vẻ, sự lo lắng đều tan hết.
Quân Trà Lợi Bạt Chiết La Tổng Ấn thứ mười sáu. Dùng Đại Tâm Chú.
Tay trái đem ngón cái vịn trên móng ngón út, đều dựng thẳng ba ngón giữa, trỏ, vô danh hướng lên trên bung tách ra.
Một pháp ấn này chỉ làm nơi Pháp Hội Đàn Tràng, hết thảy nghĩ định hiến hương, hoa, đèn sáng, hết thảy thức ăn uống, tất cả vật cúng… mỗi mỗi đều dùng Ấn này ấn vào. Nếu có Bạt Chiết La. Chày Kim Cang, dùng Bạt Chiết La mỗi mỗi ấn vào thì chẳng cần Ấn này. Nếu không có Bạt Chiết La thì mới dùng Ấn này ấn vào các vật cúng… thì tất cả các nhóm bọn quỷ thần ác chẳng dám xúc phạm.
Làm cúng dường này thì Kim Cang vui vẻ. Đại Tiểu Tâm Chú đều thông dụng được.
Nếu đàn bà bị bệnh kinh nguyệt luôn tuôn ra với lỗ mũi của người nam nữ chảy máu. Lấy La Sa Thiện Na, rau dền, rau cải, củ… đều lấy hai lượng hòa chung với gạo tẻ, nước cốt vo gạo, mật làm thành viên xong, tụng Tâm Chú lúc trước hai mươi mốt biến, chia làm viên nhỏ, lớn như hạt bắp… như pháp uống vào thì bệnh án liền khỏi. Đây gọi là thuốc A Già Đà.
Agada: Vạn ứng linh dược.
Lại có một phương đồng tên gọi. Lấy đường cát, Uất Kim Hoa với bơ đâm giã hòa làm tương tự như cao. Nếu bị nghẹt mũi với trong mũi có mùi hôi, lại hương chẳng được hôi mà bị mùi hôi… liền dùng thuốc lúc trước nhỏ vào liền khỏi.
Nếu nửa ngày bị đau đầu, liền dùng thuốc lúc trước chà xát liền khỏi.
Nếu người bị đau mắt, liền dùng thuốc chà xát trên dưới mắt bị mù thì mắt ấy liền khỏi bệnh.
Nếu có người, sáng sớm bị đau đầu, mặt trời lặn về Tây liền khỏe… thì chà xát vào liền khỏi. Ngoài ra, dựa theo đây có thể biết.
Nếu người chẳng thể ăn, khô gầy vàng vọt, mắt vàng, hơi trong bụng kết thành khối lớn, bị suyễn, hơi thở chẳng thông qua cổ họng, rất đau nhức…
Lấy bảy vị: Muối quặng, thuốc A Ngụy, Ha Lê Lặc, Hồi Hương Tử, gừng khô, Tất Bát, hồ tiêu… đều lấy nửa lượng bằng nhau.
Trộn lại đâm giã làm bột, hòa với đường cát làm thành viên, mỗi viên lớn như hạt táo… để bụng trống, một lần uống một viên, không có chỗ cấm kỵ thì mập lớn, nhan sắc tốt đẹp, khí lực sung mãn. Đều dùng Nha Ấn ấn vào các thuốc bên trên, Chú một trăm lẻ tám biến, sau đó mới uống.
Quân Trà Lợi Đại Tâm Chú thứ mười bảy:
Chú là:
Úm hộ lô hộ lô để sắt tra, để sắt tra bàn đà bàn đà ha na ha na a mật lý đế ô hồng, phất.
Quân Trà Lợi Trung Tâm Pháp Chú thứ mười tám.
Chú là:
Úm đỗ na đỗ na ô hồng ô hồng phất phất sa ha.
Quân Trà Lợi Tiểu Tâm Pháp Chú thứ mười chín:
Chú là:
Úm a mât lý đế ô hồng phất.
Tiểu Tâm Chú này. Nếu người trúng độc bị chết. Dùng tay vịn lỗ tai đến cái miệng, Chú vào hai mươi mốt biến vào lỗ tai, Chú vào nước bảy biến rồi đem nước Chú rải tán trên mặt hai mươi mốt biến, cho uống vào liền sống lại… gọi là Điềm Thủy. Nước có vị ngọt.
Khi Thiểm Tử bị trúng mũi tên, Chư Thiên dùng nước Chú này rưới vảy lên vết thương, tức vết thương liền khỏi, cũng được cởi bỏ ô nhiễm, rưới tắm thân thể, vào Phật đường dùng đều được. Ở trước mặt Phật tụng một ngàn biến bản của thầy thông có sa ha.
SVĀHĀ.
Ba Pháp Chú này: Hộ thân làm pháp cho đến tất cả hương hoa, quả trái, đèn, dầu, thức ăn uống các vật cúng dường trong Đàn trị bệnh với các việc pháp đều dùng Chú này chú vào, liền được tất cả thành tựu.
Quân Trà Lợi Đại Hộ Thân Ấn thứ hai mươi. Dùng Đại Chú phía sau.
Đứng ngay ngắn, hướng mặt về phía trước, tay trái: Đem ngón cái đè trên móng ngón út, dựng tách thẳng ba ngón còn lại, đè ép trên cánh tay bên nách phải. Tiếp theo dùng tay phải, pháp đồng với tay trái, cũng đè ép trên cánh tay bên trái. Sau đó co rụt bàn chân trái đem lòng bàn chân đè ép trên đầu gối phải. Trợn mắt, há miệng làm hình rất giận dữ.
Pháp thân ấn này chỉ ở nơi lập Đàn, đều làm Ấn này trấn bốn phương với trấn bốn cửa… làm pháp đều thành.
Nếu muốn đi trị bệnh. Trước tiên, ở bên trong phòng làm Ấn Pháp này, hộ thân rồi đi.
Nếu thấy người bệnh sanh kinh động thì bệnh ấy dễ khỏi. Nếu chẳng kinh động thì bệnh ấy khó khỏi. Nếu bệnh vừa tốt, từ xa nhìn thấy liền khỏi.
Nếu nhà người bệnh sai Sứ thăm hỏi thầy thì vị thầy làm Ấn này, tụng Chú.
Khi nằm thời trong mộng: Nếu thấy Phật với Bồ Tát, Kim Cang, Chư Thiên thì bệnh ấy được khỏi. Chú Sư liền đi. Trị bệnh.
Nếu thấy nhóm lừa, ngựa, người khỏa thân như nhóm ngoại đạo thì người ấy liền chết. Chú Sư đừng đi.
Nếu thấy cái bát đồng, nhóm vật bằng sắt… thì bệnh ấy chẳng khỏi. Chú Sư đừng đi.
Quân Trà Lợi Đại Sân Pháp Thân Ấn thứ hai mươi mốt. Dùng Đại Chú phía sau.
Đứng dậy, đem ngón chân trái hướng về bên trái, co nghiêng đầu gối đứng. Hướng ngón chân phải về phía trước, thân đứng nghiêng. Trước tiên, đem tay phải co ngón tay ngay trong lòng bàn tay, đem bốn ngón phía sau nắm quyền, đè ở bên dưới nách trái. Tiếp theo, dùng tay trái cũng như tay phải, nắm quyền đè ngay bên dưới nách phải, hơi hướng cái đầu về bên phải, hướng về bên trái cũng được, nghiêng mắt nhìn, làm hình rất giận dữ.
Pháp Thân Ấn này. Nếu có tất các bệnh khó trị, các quỷ thần ác chẳng chịu phục, chẳng lui… thì nên làm Ấn này, nhiễu quanh người bệnh ba vòng, nghiêng thân, như quỳ đầu gối xuống đất, khởi sắc rất giận dữ, tụng Đại Chú phía sau, tiếng Chú chẳng dứt, nhiễu quanh ba vòng xong thì tất cả đều tan, bệnh liền được khỏi. Nếu chẳng khỏi, tức chẳng phải là bệnh quỷ.
Nếu người bệnh ấy chẳng chí tâm thì bệnh ấy chẳng khỏi.
Nếu làm Đàn Xứ, kết giới thời dùng, rất có linh nghiệm.
Quân Trà Lợi Đại Hàng Ma Pháp Thân Ấn thứ hai mươi hai. Dùng Đại Chú phía sau.
Đứng dậy, lại co rụt hai đầu gối, gót chân cùng trụ nhau. Đem hổ khẩu của tay trái cài ngược nơi eo, hướng bốn ngón tay về phía trước, hướng ngón cái về phía sau. Tay phải cầm Bạt Chiết La. Chày Kim Cang, gắng sức dựng cánh tay. Nếu không có Bạt Chiết La, liền nắm làm quyền như cầm chày Kim Cang, làm mặt rất giận dữ, tụng Đại Chú phía sau. Nếu dựng ngón cái thì gọi là Bả Phủ Ấn.
Pháp Thân Ấn này chỉ nơi làm Đàn với chỗ trị bệnh thì nên làm Ấn này hàng phục tất cả ma ác, quỷ thần. Tùy theo chỗ làm ấy, việc Pháp Kim Cang thảy đều thành biện.
Quân Trà Lợi Tam Nhãn Đại Pháp Thân Ấn thứ hai mươi ba. Dùng Đại Chú phía sau.
Ngửa hai lòng bày tay, đem ba ngón phía sau. Ngón giữa, ngón vô danh, ngón út cài chéo nhau, bên phải đè bên trái. Dựng nghiêng đầu hai ngón trỏ dính nhau, đều co ngón cái vịn trên cạnh ngón giữa. Đem đầu ngón trỏ hướng xuống dười, dính ngang trên lông mày.
Đứng dậy, thẳng chân phải đạp lên đất, co rút bàn chân trái ngang bằng đầu gối phải, hướng lòng bàn chân xuống dưới như thế dẫm đạp, đem gót chân trụ dính trên đầu gối. Liền trợn mắt nhìn, làm mặt rất giận dữ, đầu như hướng về phía trước.
Pháp Thân ấn này. Nếu nơi làm tất cả Đàn Pháp, kết Ấn này xong, nhất cước hành đạo, nhiễu quanh Đàn ba vòng thì tất cả không có sợ hãi, chỗ làm đều thành.
Nếu nơi trị bệnh, ở bên người bệnh, làm Ấn này xong, tụng Đại Chú phía sau thì bệnh ấy liền khỏi.
Tất cả Đàn Xứ, chẳng hiểu Pháp nhất cước hành thì tất cả Đàn Pháp thảy đều chẳng thành.
Quân Trà Lợi Đại Pháp Chú thứ hai mươi bốn Chú là:
Na mô la đát na đá la dạ gia na mô thất chiên trà bạt chiết la ba nõa duệ ma ha dược xoa tê na ba đá duệ na mô bạt chiết la cốt lô đà gia nễ tridạ, bát la thiệp phiệt lợi đa bà la địa phú đa ốc già la, đặng sắt đô lô lô địa yết tra bà gia tỳ la bà gia a tư, mô sa la bạt chiết la, bà la du bà xá ha tất đà gia đá điệt tha úm hộ lô hộ lô a mật lý đa quân trà lợi khư khư khư khư ha na ha na ha đà ha đà ha hề ha hề để sắt tra để sắt tra ha na ha na đà ha đà ha bả giả bả giả cậtliễu hư nõa cật liễu hư nõa bàn đà bàn đà yết lặc xà yết lặc xà đát lặc xà đát lặc xà tì tất phổ tra gia tì tất phổ tra gia bà già phạm a mật lý đa quân trà lợi mộ uất đàn trà gia bạt chiết lợi nõa tát bà đổ sắt tra bỉ đát na tỳ na gia già na nễ ba la nõa gia ma ha già na bát để thị bỉ đạn đà yết la gia ô hồng, ô hồng phất phất phất úm câu lô đà ca nõa duệ sa ha.
Đại Pháp Chú này. Nếu có Pháp Đàn với chữa trị tất cả các bệnh quỷ thần, đều nên làm bốn loại Thân Ấn lúc trước kết hộ Giới xong thì tất cả Ma Quỷ thảy đều hàng phục, bỏ chạy tứ tán.
Nếu có người hay như Pháp thọ trì, tụng Chú này mãn mười vạn biến thì tất cả đều được tùy ý thành biện, trị bệnh rất hiệu nghiệm.
Như trước đã nói, bốn loại Thân Ấn đồng dùng Chú này, làm các việc pháp đều được thành biện. Chỉ chẳng chí Tâm thì một điều cũng không có chỗ nghiệm.
Lại Quân Trà Lợi Đại Chú thứ hai mươi năm Chú là:
Na mô la đát na đá la dạ gia na mô thất chiên trà bạt chiết la ba nõa duệ ma ha dược xoa tê na bả đá duệ na mô tỳ ma la, thiệp phạt la ca na ca sa nộ ca ca na a mật lý đa tam bà bà duệ la đát na ca na mô lượng nộ lợi bà la tì lợi gia dạ, bạt chiết la bàng nễ tì lợi gia dạ, bạt chiết la bàng nễ đổ la ha tì ca gia đề bà na già dược xoa la sát sa bà la bạt để nễ na úm a mật lý đa quân trà lợi khước khước, khước khước khước na khước na khước hiệu khước hiệu để sắt tra để sắt tra bạt na bạt na ha na ha na đà ha đà ha bát tra bát tra tát bà bỉ đát na tì na dạ ca gia, phất xá đốt lỗ lợi đà diêm, phất dược xoa lê đà diêm, phất la sát sa lê đà diêm, phất ma la ma la sát sa lê đà diêm, phất tát bà yết la ha, lê đà diêm, phất tát bà giả ca tra ca, lê đà diêm, phất tát bà bà du một đốt tỳ tiêu, lê đà diêm, phất đá điệt tha đà ha đà ha bát trá bát trá a bỉ xa a bỉ xa úm úm úm phất phất phất bạt chiết la ba nễ la đát nhã ba dạ để sa ha.
Một Đại Chú này đều hay tịch trừ tất cả chướng nạn.
Nếu người có ý muốn thọ trì Chú này, ngày ngày dùng nước nóng thơm tắm gội sạch sẽ, mặc áo sạch mới, tự Hộ Thân xong, vào trong Đạo Tràng mà làm Thủy Đàn dài rộng bốn khuỷu tay, nghiên sức Đàn Pháp như Bộ khác nói, trang nghiêm xong rồi, liền làm kết giới.
Chính giữa Đàn ấy an tòa Quân Trà Lợi Kim Cang. Nếu có Tượng ấy thì nghênh thỉnh an trí, nệu không có Tượng ấy thì nêu tâm làm Ấn thỉnh ngồi cũng được. Rải mọi loại hoa, đốt An Tất Hương. Luôn luôn tụng Chú mãn mười vạn biến.
Sau đó, ờ nơi thanh tịnh làm cái Đàn năm màu, nghiêm sức như trong bộ khác đã nói lúc trước. Vào trong Đàn này, rải mọi loại hoa, đốt mọi loại hương, mọi loại thức ăn uống, đèn sáng, nhóm vật cúng đem dùng cúng dường, phát nguyện, tụng Chú chú vào nhóm bơ, mật rồi thiêu đốt trong lò lửa, hoặc một trăm lẻ tám biến, hoặc một ngàn không trăm lẻ tám biến cúng dường… cho đến bảy ngày, mười bốn ngày, đủ số xong tức điều ước nguyện được quả.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Sáu Mươi Tám - Phẩm Lục độ Tương Nhiếp
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Thập Lực - phần Một
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Sáu - Phẩm Vương Tương ưng - Kinh Bệ Bà Lăng Kỳ
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Niên Thiếu - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Dần đủ Tất Cả Trí đức - Phẩm Hai - Trụ Ly Cấu