Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Tám - Thập Nhất Diện Quán Thế âm Thần Chú Kinh - Tập Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐÀ LA NI TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

A Địa Cồ Đa, Đời Đường  

PHẦN TÁM

THẬP NHẤT DIỆN

QUÁN THẾ ÂM THẦN CHÚ KINH  

TẬP HAI  

Tiếp theo, ngày thứ năm: kết giới, pháp thức như ngày thứ tư. Lại dùng phân bò xoa bôi mặt đất.

Pháp xoa bôi đất ấy: Tay phải xoay chuyển chà xát, đứng hướng về bên trái chà xát. Việc còn lại ấy đồng với ngày thứ bốn.

Tiếp theo, ngày thứ sáu: A Xà Lê tắm gội, trước tiên vào bên trong Đàn, lại chọn hai người đệ tử rất thông minh cũng đều tắm gội, mặc áo sạch mới đi theo phìa sau vào Đàn. Dùng nướng nóng Đàn Hương hòa với tro đá xong, đem sợi dây nhuộm kỹ trong nước cốt của tro đá, khiến đệ tử cầm đầu sợi dây ấy đè ngay đầu góc ở phía Đông Bắc của Đàn, làm nơi chốn hạ xuống một điểm đầu tiên.

Tiếp theo, A Xà Lê cầm một đấu sợi dây đè ngay đầu góc ở phía Đông Nam của Đàn, làm nơi chốn hạ xuống một điểm đầu tiên với giăng kéo sát đất, sai một đệ tử vin chính giữa sợi dây rồi ghép ráp ở trên mặt đất.

Tiếp theo, đệ tử từ góc Đông Bắc đứng dậy hướng đến góc Đông Nam ngồi xuống, cũng làm như lúc trước.

Tiếp theo, A Xà Lê từ góc Đông Nam đứng dậy hướng đến góc Tây Bắc ngồi xuống, cũng làm như lúc trước.

Tiếp theo, đệ tử từ góc Tây Nam đứng dậy hướng đến góc Đông Bắc ngồi xuống, cũng làm như lúc trước.

Tiếp theo, ở nơi ghép ráp lúc trước, từ bên ngoài hướng vào bên trong, lìa khoảng một khuỷu tay, lại y theo pháp lúc trước, vây quanh ghép ráp.

Tiếp theo, lấy sợi dây tám khuỷu tay, co gập chính giữa, chấm xuống một điểm ngay một phương của Đàn. Lại gập sợi dây hai khuỷu tay, từ điểm chính giữa ở một phương của Đàn liệu lường, hai bên trái phải lại chấm điểm ở hai nơi. Tiếp theo, sợi dây cách vách tường ở cửa của một phương khoảng bốn ngón tay.

Tiếp theo, lại lại co gập từ vách tường của cửa, hướng về hai bên trái phải làm khoảng năm ngón tay. Tiếp theo, hai bên trái phải làm rộng khoảng năm ngón tay.

Tiếp theo, mé bên ngoài cửa ấy, vẽ thẳng một phương, nếu như thế thì ba phương dựa theo đây để biết.

Tiếp theo làm sợi dây bên ngoài của Trung Viện khoảng bốn khuỷu tay.

Sợi dây bên trong của Ngoại Viện ấy với sợi dây bên ngoài ở giữa, khoảng cách giữa hai sợi dây mở lối đi một khuỷu tay.

Trung Viện ấy: Cửa, bốn phương, tường vách cùng hướng về hai bên trái phải, làm chung khoảng ba ngón tay.

Pháp ghép ráp sợi dây mé bên ngoài của cửa cũng như pháp lúc trước.

Phương bên trong của Trung Viện ấy, lìa sợi dây bên ngoài một khủy tay, lại ghép ráp sợi dây tẩm tro đá.

Ngay chính giữa của Đàn Ấy làm các Viện hai khuỷu tay, đừng làm cửa.

Tiếp theo, A Xà Lê dùng sợi dây năm màu, một lần Chú thì một lần kết gút, kết năm mươi năm gút, dùng Mã Đầu Quán Thế Âm Chú.

Chú là:

Úm a di lý đô tri bà bà ô hồng, phán.

Tiếp theo, dùng tấm lụa bọc năm thứ báu kèm với năm loại hạt lúa đậu. Lấy sợi dây năm màu cột buộc rồi cột trên sợi dây Chú. Tùy theo người nhiều ít, mội mỗi bao bọc lại.

Tiếp theo, ở bốn góc của Đàn đều dựng một cây sào, cửa Tây hai cây sào trúc. Dùng dây quấn cột trên cây sào ở bốn góc, ở trên sợi dây ấy treo lá phan đủ màu.

Phương bên trên, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương bàng của Đàn ấy cột buộc lá phan xen lẫn nhau trang nghiêm.

Ngoại Viện của Đàn ấy: Lìa cạnh Nam của cửa Tây hai Xích 2/3m đào làm cái lò lửa dài rộng, sâu cạn đều làm hai Xích 2/3m.

Ở trong lò ấy lưu một cái Đàn đất, trên Đài tinh khiết làm hoa sen bằng bùn thơm dùng làm tòa hoa sen.

Ngày tiếp theo, khi Mặt Trời sắp lặn thì A Xà Lê khiến các đệ tử cùng tắm gội xong.

Ngày tiếp theo, A Xà Lê làm Đại kết giới.

Ngày tiếp theo, khi vào thời triệu thỉnh Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang. Ở chính giữa Đàn để một tượng Phật, phương Bắc để Quán Thế Âm, phương Nam để Kim Cang.

Đem mọi loại hương hoa, năm mâm thức ăn uống, mười sáu chén đèn để cúng dường.

Tiếp theo, ở bên ngoài cửa Tây trải cái chiếu sạch mới.

Tiếp theo, A Xà Lê gọi các đệ tử làm Hộ Thân Ấn, mỗi mỗi tụng Chú bảy biến, mỗi mỗi đều Ấn lên đảnh đầu, hai vai, trái tim, cổ họng, tam tinh, chân tóc, sau ót của các đệ tử. Hộ Thân xong rồi, khiến các đệ tử ngồi ở trên cái chiếu, hướng mặt về phương Đông.

Tiếp theo, lấy hương hoa với hạt cải trắng. A Xà Lê cầm hạt cải trắng đều Chú vào bảy biến, tiếp theo đánh lên đầu đệ tử ba lần. Đánh xong, lại cho Hộ Thân, dùng Mã.

Đầu Quán Thế Âm Ấn Chú.

Tiếp theo, A Xà Lê quỳ gối, hỏi đệ tử rất dài, rồi nói rằng: Nay ngươi muốn được học pháp này không?

Đệ Tử đáp rằng: Muốn được.

Như vậy, thứ tự hỏi đệ tử. Pháp dùng như lúc trước.

Tiếp theo, A Xà Lê dùng bàn tay nâng nước thơm rải trên mỗi một cái đầu của các đệ tử. Lại dùng tay phải đè trên mỗi một lồng ngực của các đệ tử, vì họ tụng Mã.

Đầu Quán Thế Âm Chú.

Tiếp theo, lấy sợi dây Chú, mỗi mỗi đều cột buộc cánh tay của các đệ tử, nam bên trái, nữ bên phải.

Tiếp theo, dùng hương nước cốt của cây Sa La theo thứ tự rải lên thân của các đệ tử, xoay theo bên phải ba vòng.

Rải nước hương xong, tiếp theo xoay cây đuốc lửa cũng như pháp lúc trước.

Tiếp theo, cho cành liễu dài tám ngón tay. Tiếp theo, trao cho bông hoa xong, khiến các đệ tử hướng về phương Đông ngồi thành hàng, dạy các đệ tử ném bông hoa hướng về phía trước. Tiếp theo, nhai nhấm cành liễu, cũng ném như lúc trước.

Nếu đầu bông hoa hướng về thân là tốt, lưng hướng về Đông thì biết là ma chướng xuất ra. Hướng về Nam, Bắc đều là chẳng tốt.

Nơi nhai nhấm cành liễu hướng về thân là tốt, lưng hướng về Đông thì biết là ma chướng xuất ra. Còn lại, như pháp của bông hoa.

Tiếp theo, cho rửa tay, đều dùng bàn tay nhận lãnh nước Bạt Chiết La.

Vajrodaka: Kim Cang Thủy, kính tạ rồi uống vào.

Tiếp theo, A Xà Lê vào Đàn khải bạch Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang rằng: Con đã theo thứ tự hỏi các đệ tử. Lại đã làm pháp theo thứ tự ban cho xong. Nay các đệ tử muốn vào Đàn, đi đến cúng dường Chúng Thánh.

Như vậy, khải bạch xong, dẫn đệ tử đi vào, lược cúng dường xong, phát khiển rồi đi ra ngoài.

A Xà Lê bảo các đệ tử: Hãy nằm ngủ đi! Nếu có giấc mộng thì sáng sớm, mỗi mỗi đều đến hỏi ta.

Khi các đệ tử cùng nhau đi nằm nghỉ, sau đó A Xà Lê vào ở bên trong Đàn, bạch với Phật, Bồ Tát, Kim Cang… rằng: Các nhóm đệ tử ngày mai lại muốn vào Đạo Tràng, đi đến rộng làm cúng dường. Xin thỉnh Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Chư Thiên bay lên không trung, ngày mai muốn cúng dường, khi giáng lâm thời xin nhận khắp chúng cúng dường. Như vậy nói ba lần.

Sau đó, phát khiển Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang với Chư Thiên bên trong Đàn. Tiếp theo, A Xà Lê hướng về bên phía Bắc của Đàn, ngồi hướng mặt về phía Nam, để một lò lửa, tụng Mã Đầu Chú chú vào hạt cải trắng, một lần Chú thì một lần thiêu đốt, một trăm lẻ tám lần thời các đệ tử liền được diệt tội.

Tiếp theo, A Xà Lê cùng với hai đệ tử ở trong một đêm, dùng phấn năm màu bày trí bên trong Đàn.

pháp bày trí là: Trước tiên, từ Nột Viện đầu tiên dùng màu trắng. Abadāta, tiếp đến vàng. Pīta, xanh. Nīla, đỏ. Lohita…sau cùng dùng màu đen. Kṛṣṇa. Đến sáng sớm thức dậy. Lại đến Ngoại Viện, từ góc Đông Bắc vòng quanh theo bên phải làm, dùng vật năm màu y theo pháp lúc trước làm.

Ở chính gữa Đàn an Thập Nhất Diện Quán Thế Âm làm Tòa Chủ ở trên hoa sen, an trí hình bánh xe.

Tiếp theo, Nội Viện: Chính giữa của mặt Đông an A Di Đà Phật. Amitābhabuddha, bên phải Đức Phật an Thích Ca Mâu Ni Phật Śākya muṇi buddha, bên trái an Bát Nhã Ba La Mật Đa. Pāramitā.

Chính giữa của mặt Bắc an Đại Thế Chí Bồ Tát. Mahā sthāma prāpta, bên phải an Quán Thế Âm Mẫu. Avalokiteśvara mātā, bên trái an Mã Đầu Quán Thế Âm. Hayagrīvālokiteśvar.

Chính giữa của mặt Nam an Kim Cang Vương. Vajra rāja, bên phải an Kim Cang Mẫu. Vajra mātā, bên trái an Bạt Chiết La Mẫu Sắt Tri.

Vajra muṣṭi: Kim Cang Quyền.

Bên phía Nam của cửa Viện ở mặt Tây an Đề Đầu Lại Tra.

Dhṛta rāṣṭra: Trì Quốc Thiên Vương, bên phía Bắc an Tỳ Lô Đà Ca.

Virūḍhaka: Tăng Trưởng Thiên Vương.

Tiếp theo, làm Ngoại Viện: Phía Đông đi từ đầu Bắc trước tiên an Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi.

Mañjuśrī: Văn Thù, tiếp đến Bồ Tát Di Lặc. Maitreya, tiếp đến an Đức Phật Chiên Đàn Đức. Candana guṇa buddha, tiếp đến Đức Phật A Súc. Akṣobhya, tiếp đến Đức Phật Tướng Đức. Ketu guṇa, tiếp đến Bồ Tát Phổ Hiền. Samanta bhadra, tiếp đến Nguyệt Thiên. Candra deva, tiếp đến Bồ Tát Hư Không Tạng Ākāśa garbha.

Ngoại Viện: Mặt Bắc, từ đầu Đông trước tiên an Ma Ha Thuế Đa.

Mahā śveta: Đường nói là Đại Bạch Quán Thế Âm, tiếp đến Ma Ha Thất Lợi Duệ.

Mahā śriye: Đại Cát Tường, tiếp đến Tùy Tâm Quán Thế Âm, tiếp đến Nhất Tha Tam Bạt Để Già La.

Icchā saṃpad kara: Tác Đạt Thành Hy Vọng, tiếp đến A Mưu Già Bà Xa.

Amogha pāśa: Đường nói là Bất Không Quyến Sách, tiếp đến Bật Câu Tri. Bhṛkuṭī, tiếp đến Tỳ Ma La Mạt Tri.

Vimala mati: Ly Cấu Tuệ.

Viện này, phía Nam đi từ đầu Đông trước tiên an Hỏa Đầu Kim Cang, tiếp đến an Ni Lam Bà La Đà La.

Nīllāmbara dhara: Trì Thanh Y Kim Cương. Đường nói là Thanh Kim Cang, tiếp đến Mẫu Lỗ Đà Tra Già. Kim Cang Nhi Danh, tiếp đến TôBà Tư Trì Ca La, tiếp đến Tô Bà Hưu. Cũng là Kim Cang Nhi, tiếp đến Ương Câu Thi.

Aṅkuṣī: Câu, tiếp đến Bạt Chiết La Thương Ca La. Vajra śaṃkhara.

Ngoại Viện: Phía Tây đi từ đầu Nam trước tiên an Ma Lợi Chi. Marīci, tiếp đến an Nhật Thiên. Sūrya deva, tiếp đến an Tỳ Lỗ Bác Xoa Thiên Vương.

Virūpākṣa: Quảng Mục Thiên Vương.

Tiếp đến an làm cửa. Dvāra. Vách tường phía Bắc của cửa an Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Vaiśravaṇa, tiếp đến an Địa Thiên. Pṛthivi deva, tiếp đến an tất cả Long Vương. Nāga rāja.

bốn góc của Ngoại Viện ấy đều an hai Bạt Chiết La hai chày Kim Cang giao chéo nhau như hình chữ Thập 十.

Lại bốn góc của Trung Viện dựa theo lúc trước đều an hai Bạt Chiết La, cũng giao chéo nhau. Như hình chữ Thập.

Tiếp theo, A Xà Lê đứng dậy, đứng ở cửa Tây nhìn việc trong Đàn: Thứ nào là tốt, thứ nào chẳng tốt, thứ nào giáp vòng, thứ nào chẳng giáp vòng, xem xét kiểm tra mỗi mỗi đều tốt xong, vẫn ở bên trong Đàn sai đệ tử cũ thủ hộ mà trụ.

Tiếp theo, A Xà Lê dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới, nên dùng lụa đào bao bọc đảnh đầu của mìng. Màu hồng cũng được, vẫn dùng lụa màu vàng quấn quanh đầu cột buộc vầng trán.

Tiếp theo, đem sợi dây Chú cột buộc ngay lóng cổ tay trái của mình.

Tiếp theo làm Hộ Thân Ấn ấn vào thân của mình, đều dùng Mã Đầu Hộ Thân Ấn Chú.

Tiếp theo, cầm Bạt Chiết La, làm A Mật Lý Đa Quân Trà Lợi Thân Ấn, ba hồi chuyển theo bên phải ở bên ngoài của Đàn.

Tiếp theo, làm Địa kết giới, bốn phương, phương trên theo thứ tự mà làm, kèm tụng Mã Đầu Chú.

Tiếp theo, lấy mười ba cái bình đều nhận được khoảng một thăng, chứa đầy nước sạch. Ở bên trong để chút ít Ngũ Cốc kèm với một ít Long Não Hương, Uất Kim Hương với Thạch Lưu Hoàng cộng chung với năm thứ báu… để đầy trong cái bọc rồi đặt vào bên trong cái bình. Trên miệng bình ấy, dùng cành với lá Liễu, Bách… cành Trúc cắm đầy dẫy, đều dùng lụa trắng cột chặt chẳng cho tán rời nhau.

Tiếp theo, Chú vào cái bình nước một trăm lẻ tám biến. Dùng Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Chú chú vào cái bình một trăm lẻ tám biến như vậy.

Chú xong, đem vào. Trước tiên, đều an một cái bình nước ở bốn góc với chính giữa Đàn.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần