Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm An Ban - Phần Một

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn

PHẬT THUYẾT

KINH TĂNG NHẤT A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn  

PHẨM MƯỜI BẢY

PHẨM AN BAN  

PHẦN MỘT  

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ Thế Tôn đến giờ đắp y ôm bát dẫn La Vân vào cổng thành Xá Vệ.

Khi ấy Phật quay nhìn phía hữu bảo La Vân: Nay thầy nên quán sắc là vô thường.

La Vân đáp: Thưa vâng, Thế Tôn. Sắc là vô thường.

Thế Tôn bảo: La Vân! Thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường.

La Vân đáp: Thưa vâng, Thế Tôn. Thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường.

Lúc này, Tôn Giả La Vân lại nghĩ: Ðây có duyên cớ gì, mà nay mới đến cổng phần vệ thành khất thực đang ở giữa đường.

Cớ sao Thế Tôn lại đối diện dạy dỗ ta?

Nay ta hãy trở về chỗ mình, chẳng nên vào thành khất thực. Bấy giờ Tôn Giả La Vân giữa đường trở về Tịnh Xá Kỳ Hoàn, đem y bát đến dưới gốc cây, chính thân, chính ý, ngồi kiết già, chuyên chú nhất tâm, niệm sắc là vô thường. Niệm thọ, tưởng, hành, thức là vô thường.

Bấy giờ Thế Tôn ở thành Xá Vệ khất thực xong, sau khi ăn, đi hành kinh ở Tịnh Xá Kỳ Hoàn, dần dần đến chỗ La Vân.

Ðến rồi, Thế Tôn bảo La Vân rằng: Thầy nên tu hành pháp An Ban. Tu hành pháp này, hễ có ý tưởng sầu lo đều sẽ trừ hết. Nay ông lại nên tu hành tưởng nhơ nhớp bất tịnh, nếu có tham dục nên diệt trừ hết.

La Vân! Nay thầy nên tu hành tâm từ, đã hành tâm từ thì hễ có sân giận đều sẽ trừ hết.

La Vân! Nay thầy nên hành tâm bi, đã hành tâm bi thì hễ có tâm hại ắt sẽ trừ hết.

La Vân! Nay thầy nên hành tâm hỷ, đã hành tâm hỉ thì hễ có tâm tật đố đều sẽ trừ hết.

La Vân! Nay thầy nên hành tâm hộ xả. Ðã hành tâm xả thì hễ có kiêu mạn ắt sẽ trừ diệt hết.

Bấy giờ Thế Tôn hướng về La Vân mà nói kệ:

Chớ khởi tưởng nghĩ luôn,

Hằng nên tự thuận pháp,

Như thế người có trí,

Tên tuổi được lan truyền.

Cầm đuốc sáng cho người,

Khổ ở tối tăm lớn,

Trời, Rồng cung kính thờ,

Kính thờ bậc Sư Trưởng.

Lúc này Tỳ Kheo La Vân lại dùng kệ đáp Thế Tôn:

Con không khởi trước tưởng,

Lại hằng thuận với pháp,

Như thế người có trí,

Thì hay thờ Sư Trưởng.

Bấy giờ Thế Tôn dạy bảo xong, liền trở về Tịnh Thất.

Lúc này Tôn Giả La Vân lại nghĩ: Nay làm sao ta hành An Ban trừ bỏ được buồn lo, không có các tưởng?

Bấy giờ La Vân liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến chỗ Thế Tôn, đến rồi cúi lạy và ngồi một bên.

Chốc lát ngồi lui bạch Phật: Thế nào là tu hành An Ban trừ khử sầu lo không có các tưởng?

Thu hoạch quả báo lớn, được vị Cam Lồ?

Thế Tôn bảo: Lành thay, lành thay, La Vân! Thầy có thể ở trước Như Lai rống tiếng sư tử mà hỏi nghĩa này.

Thế nào là tu hành An Ban trừ bỏ sầu lo không có các tưởng, được đại quả báo, được vị Cam Lồ?

La Vân! Nay thầy hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ, ta sẽ vì thầy phân biệt đầy đủ.

Xin vâng, Thế Tôn!

Bấy giờ Tôn Giả La Vân nhận lời Phật dạy, rồi Thế Tôn bảo: La Vân! Ở đây nếu có Tỳ Kheo vui ở chỗ vắng vẻ không người, rồi chánh thân, chánh ý, ngồi kiết già, không có niệm khác, buộc niệm ở chót mũi, hơi thở ra dài biết thở ra dài, thở vào dài biết thở vào dài. Thở ra ngắn biết thở ra ngắn, thở vào ngắn cũng biết thở vào ngắn.

Thở ra lạnh cũng biết thở ra lạnh, thở vào lạnh cũng biết thở vào lạnh. Thở ra ấm cũng biết thở ra ấm, thở vào ấm cũng biết thở vào ấm. Quán khắp thân thể thở vào, thở ra thảy đều biết hết. Lúc có thở cũng lại biết có, còn lúc không thở cũng lại biết không.

Nếu hơi thở từ tâm ra, cũng lại biết từ tâm ra. Nếu hơi thở từ tâm vào cũng lại biết từ tâm vào.

Như vậy, này La Vân! Người hay tu hành An Ban, thì không có tưởng sầu lo não loạn, thu hoạch quả báo lớn, được vị Cam Lồ. Bấy giờ Thế Tôn Thuyết pháp vi diệu đầy đủ cho La Vân rồi, La Vân liền từ chỗ ngồi đứng lên, lạy Phật, nhiễu ba vòng rồi đi.

Đến dưới gốc cây tại vườn An Đà, chính thân, chính ý, ngồi kiết già, không có niệm khác, buộc niệm ở chót mũi, thở ra dài cũng biết thở ra dài, thở vào dài cũng biết thở vào dài.

Thở ra ngắn cũng biết thở ra ngắn, thở vào ngắn cũng biết thở vào ngắn. Thở ra lạnh cũng biết thở ra lạnh, thở vào lạnh cũng biết thở vào lạnh.

Thở ra ấm cũng biết thở ra ấm, thở vào ấm cũng biết thở vào ấm. Quán khắp thân thể, hơi thở ra thở vào thảy đều biết cả.

Lúc có hơi thở cũng lại biết có, lúc không hơi thở cũng lại biết không. Nếu hơi thở từ tâm ra cũng lại biết từ tâm ra, nếu hơi thở từ tâm vào cũng lại biết từ tâm vào.

Bấy giờ La Vân tư duy như thế, dục tâm liền được giải thoát, không còn các điều ác, có giác, có quán niệm hoan hỉ khinh an lạc ở Sơ Thiền.

Có giác, có quán, trong tự quán hỷ, chuyên chú nhất tâm, nhập tam muội không giác, không quán, niệm hỷ, lạc ở Nhị Thiền. Không còn niệm hỉ, tự giữ giác tri thân lạc, chỗ Chư Thánh thường cầu, xả niệm hỉ, dạo ở Tam Thiền.

Khổ vui kia đã diệt lại không sầu lo, không khổ không vui, xả hộ niệm thanh tịnh, lạc ở Tứ Thiền. Do tam muội này, tâm thanh tịnh không bụi dơ, thân thể nhu nhuyến.

Biết từ đâu đến, nhớ việc mình đã làm, tự biết việc túc mạng vô số kiếp, cũng biết một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, trăm đời, ngàn đời, vạn đời, mấy ngàn vạn đời. Kiếp thành, kiếp hoại.

Vô số kiếp thành, vô số kiếp hoại, ức năm không thể kể: Ta từng sanh chỗ kia, tên gì, họ gì, ăn món ăn thế này, thọ khổ vui thế này. Thọ mạng dài ngắn, ở kia chết, sanh ở đây, đây chết sanh kia.

Ngài dùng tam muội này tâm thanh tịnh không vết nhơ, cũng không có kiết sử, cũng biết chỗ khởi tâm của chúng sanh.

Ngài lại dùng Thiên nhãn thanh tịnh không vết nhơ quán chúng sanh, người sống, người chết, sắc đẹp, sắc xấu, đường thiện, đường ác, hoặc tốt hoặc xấu, điều làm, điều tạo.

Như thật rõ biết. Hoặc có chúng sanh thân hành ác, miệng hành ác, ý hành ác, phỉ báng Hiền Thánh, thường hành tà kiến, tạo hành tà kiến, thân hoại mạng chung vào trong địa ngục.

Hoặc lại có chúng sanh thân hành thiện, miệng hành thiện, ý hành thiện, chẳng phỉ báng Hiền Thánh, chẳng hằng hành chánh kiến, tạo hạnh chánh kiến, thân hoại mạng chung sanh chỗ, thiện lên Trời.

Ðó là Thiên nhãn thanh tịnh không vết nhơ, quán chúng sanh người sanh, người chết, sắc đẹp, sắc xấu, đường lành, đường ác, hoặc tốt, hoặc xấu, điều làm, điều tạo, như thật rõ biết, lại thêm bỏ ý, thành tựu tâm hết lậu hoặc.

Ngài quán sự khổ này, như thật mà biết. Ngài lại quán khổ tập, cũng biết khổ tận, cũng biết khổ xuất yếu, như thật rõ biết.

Ngài do quán như thế, tâm dục lậu được giải thoát, liền được trí giải thoát, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, lại không còn thọ thân sau, như thật rõ biết. Lúc này Tôn Giả La Vân liền thành A La Hán.

Tôn Giả La Vân đã thành La Hán, liền từ chỗ ngồi đứng lên, sửa sang y phục đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên, bạch Thế Tôn: Ðiều con cầu đã được, các lậu đã trừ sạch.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Các vị đắc A La Hán, không ai bằng La Vân. Các hữu lậu dứt hết cũng là Tỳ Kheo La Vân. Luận về người trì cấm giới cũng là Tỳ Kheo La Vân.

Vì sao thế?

Vì chư Như Lai Ðẳng Chánh Giác đời quá khứ cũng có Tỳ Kheo La Vân này. Ta muốn nói là con Phật cũng là Tỳ Kheo La Vân, thân chính từ Phật sanh, là bậc thượng của pháp.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Trong hàng Thanh Văn của Ta, đệ tử bậc nhất trì cấm giới là Tỳ Kheo La Vân.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Ðầy đủ pháp cấm giới,

Các căn cũng thành tựu,

Dần dần sẽ đắc được,

Tất cả kiết sử hết.

Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Hai người cùng xuất hiện ở đời là rất khó có được.

Thế nào là hai người?

Nghĩa là Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời rất khó được. Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện ở đời rất khó được. Hai người cùng xuất hiện ở đời là rất khó có được. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Hai người cùng xuất hiện ở đời rất khó có được.

Thế nào là hai người?

Nghĩa là Bích Chi Phật xuất hiện ở đời là rất khó được, bậc lậu tận A La Hán, đệ tử Như Lai xuất hiện ở đời rất là khó được.

Này Tỳ Kheo!

Ðó là hai người xuất hiện ở đời rất là khó có được. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có hai pháp này ở tại thế gian rất là phiền não.

Thế nào là hai pháp?

Nghĩa là làm các ác, gốc khởi các oán hiềm, lại không tạo hạnh lành là gốc của các đức. Này Tỳ Kheo, đó là hai pháp rất phiều não. Thế nên, các Tỳ Kheo, nên giác tri pháp phiền não này, cũng nên giác tri pháp không phiền não. Các pháp phiền não nên nhớ đoạn trừ, pháp không phiền não nên nhớ tu hành.

Như vậy, này các Tỳ Kheo, hãy học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Chúng sanh tà kiến, sự nhớ nghĩ, quy hướng, và các hành khác của họ đều không đáng quý. Người thế gian không nên ham thích.

Vì sao thế?

Vì tà kiến ấy chẳng lành. Ví như có hột trái đắng. Nghĩa là hột trái đắng, rau đắng, hột rau đay, hột tất địa bàn trì và các hột đắng khác. Nếu ở trên đất tốt trồng các hột này, sau đó nảy mầm vẫn đắng như cũ.

Vì sao thế?

Vì hột này vốn đắng. Chúng sanh tà kiến này cũng như thế. Việc làm của thân hành, khẩu hành, ý hành, sự quy hướng, nghĩ nhớ và các hạnh khác của họ, tất cả không đáng quý. Người thế gian không ham thích ưa chuộng.

Vì sao vậy?

Vì tà kiến là ác, không lành. Thế nên, các Tỳ Kheo, nên trừ tà kiến, tập hành chánh kiến.

Như vậy, này các Tỳ Kheo, hãy học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Chúng sanh chánh kiến, sự suy nghĩ, chỗ quy hướng và các hạnh khác của họ, tất cả đều đáng quý kính. Người thế gian ưa chuộng.

Vì sao thế?

Vì chánh kiến rất hay. Ví như có các quả ngọt như mía, như quả bồ đào và tất cả các quả ngon ngọt khác. Có người sửa sang đất tốt rồi lấy trồng, sau đó sanh trái thảy đều ngon ngọt được người ưa thích.

Vì sao thế?

Vì hột quả này vốn ngon ngọt. Chúng sanh chánh kiến này cũng như thế, sự suy nghĩ, chỗ quy hướng và các hạnh khác, tất cả đều đáng ưa chuộng. Người đời ai cũng vui vẻ.

Vì sao thế?

Vì chánh kiến có rất hay. Thế nên các Tỳ Kheo, nên tập hành chánh kiến. Như vậy, này các Tỳ Kheo, nên học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Tôn Giả A Nan ở chỗ vắng vẻ, tự tu duy một mình, rồi nghĩ: Có các chúng sanh khởi lên tư tưởng ái dục rồi sanh dục ái, ngày đêm huân tập không nhàm chán. Bấy giờ Tôn Giả A Nan vào buổi chiều liền từ chỗ ngồi đứng lên, đắp y ngay ngắn rồi đến chỗ Thế Tôn, đến rồi cúi lạy và ngồi một bên.

Bấy giờ Tôn A Nan bạch Thế Tôn:

Vừa rồi con ở chỗ vắng vẻ liền sanh niệm này: Có các chúng sanh khởi lên tưởng ái dục rồi sanh dục ái, miệt mài tập nhiễm không có nhàm chán.

Thế Tôn dạy: Ðúng vậy, A Nan! Như lời thầy nói. Có những người khởi tưởng dục ái rồi tăng dục tưởng, miệt mài tập nhiễm, không có nhàm chán.

Vì sao thế?

A Nan! Ngày xưa ở đời quá khứ có Chuyển Luân Thánh Vương tên là Ðảnh Sanh dùng pháp cai trị không có loạn bậy, bảy báu thành tựu.

Bảy báu là: Xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, Cư Sĩ báu, điển binh báu. Ðó là bảy báu. Lại có ngàn người con dũng mãnh, cường tráng, hay hàng phục các ác, thống lãnh bốn thiên hạ chẳng dùng dao gậy.

A Nan nên biết!

Bấy giờ Thánh Vương Ðảnh Sanh liền nghĩ: Ta nay có cõi Diêm Phù Ðề này, nhân dân thịnh vượng, nhiều châu báu.

Ta cũng đã theo các bậc Trưởng Lão kỳ cựu nghe: Phía Tây có đất Cù Da Ni, nhân dân thịnh vượng, có nhiều châu báu. Ta nay nên đến thống lãnh Quốc Độ kia. 

Bấy giờ, này A Nan, Ðảnh Sanh vừa sanh niệm này, liền đem bốn bộ binh từ cõi Diêm Phù này biến mất rồi đến đất Cù Da Ni. Bấy giờ người dân đất đó thấy Thánh Vương đến, đều tới trước nghinh tiếp quỳ lễ thăm hỏi.

Kính chào Ðại Vương! Nay nước Cù Da Ni nhân dân thịnh vượng, cúi mong Thánh Vương hãy ở đây cai trị nhân dân khiến theo giáo pháp. Lúc bấy giờ, này A Nan, Thánh Vương Ðảnh Sanh liền ở Cù Da Ni thống lãnh nhân dân, trải qua vài trăm ngàn năm.

Rồi lúc khác Thánh Vương Ðảnh Sanh lại nghĩ: Ta có Diêm Phù Đề, nhân dân thịnh vượng, nhiều trân bảo, cũng có mưa bảy báu ngập đến đầu gối. Nay cũng lại có đất Cù Da Ni này, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo.

Ta từng theo các bậc Trưởng Lão kỳ cựu nghe còn có nước Phất Vu Đệ, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo. Nay ta hãy đến thống lãnh Quốc Độ kia, dùng pháp cai trị.

Bấy giờ, này A Nan, Thánh Vương Ðảnh Sanh vừa sanh niệm đó, liền đem bốn bộ binh, từ Cù Da Ni biến mất, rồi đến Phất Vu Đệ.

Bấy giờ nhân dân đất kia thấy Thánh Vương đến, đều tới trước nghinh tiếp quỳ lễ thăm hỏi, khác miệng đồng thanh mà nói: Kính chào Ðại Vương!

Nay nước Phất Vu Đệ này, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo. Cúi mong Ðại Vương nên ở đây cai trị nhân dân khiến theo Giáo pháp.

Bấy giờ, này A Nan, Thánh Vương Ðảnh Sanh liền ở nước Phất Vu Đệ thống lãnh nhân dân, trải qua trăm ngàn vạn năm.

Khi ấy Thánh Vương Ðảnh Sanh vào lúc khác nảy sanh niệm này: Ta ở Diêm Phù Đề, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo, có mưa bảy báu ngập đến đầu gối. Nay lại cũng có Cù Da Ni, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo. Nay lại cũng có nước Phất Vu Đệ này, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo.

Ta cũng từng theo Trưởng Lão kỳ cựu nghe có Uất Đan Việt, nhân dân thịnh vượng, nhiều trân bảo, việc làm tự do không có cố thủ, sống lâu không yểu, chánh thọ ngàn tuổi.

Ở đó hết tuổi thọ ắt sanh lên Trời chẳng đọa đường khác, mặc áo kiếp ba dục, ăn cơm gạo tự nhiên. Nay ta nên đến thống lãnh Quốc Độ đó, dùng pháp cai trị.

Bấy giờ, này A Nan, Thánh Vương Ðảnh Sanh vừa sanh niệm đó liền đem bốn bộ binh từ Phất Vu Đệ biến mất, rồi đến Uất Đan Việt, xa thấy đất đó màu xanh rậm rì, thấy rồi liền hỏi Quần Thần: Các Khanh có thấy khắp cõi này màu sắc xanh um không?

Quần Thần đáp: Quả nhiên là thấy.

Vua bảo Quần Thần: Ðây là cỏ mềm mại, mịn như áo Trời không khác. Chư Hiền hãy ngồi ở đây. Chốc lát lại đi tới trước, xa thấy đất kia màu vàng rực.

Vua liền bảo Quần Thần: Các Khanh có thấy khắp đất này màu vàng rực không?

Quần Thần đáp: Ðều thấy hết.

Ðại Vương nói: Ðây gọi là lúa gạo tự nhiên. Các Bậc Hiền ở đây thường ăn thức ăn này. Như các Khanh bây giờ cũng sẽ ăn lúa gạo này.

Bấy giờ, một lát sau Thánh Vương lại đi đến trước, thấy đất kia bằng phẳng, xa thấy đài cao hiện ra rất đặc thù, lại bảo Quần Thần: Các Khanh có thấy đất này khắp nơi bằng phẳng không?

Quần Thần đáp: Ðúng vậy, tất cả đều thấy thế.

Ðại Vương bảo: Ðây là áo thứ cây kiếp ba dục. Các Khanh cũng lại sẽ mặc áo cây này.

Bấy giờ, này A Nan, nhân dân cõi đó thấy Ðại Vương đến, đều tới trước nghinh tiếp, quỳ lại thăm hỏi, khác tiếng đồng vang mà nói: Kính chào Thánh Vương!

Ðất Uất đan việt này, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo. Cúi mong Ðại Vương hãy ở đây cai trị nhân dân khiến theo giáo pháp.

Bấy giờ, này A Nan, Thánh Vương Ðảnh Sanh liền ở Uất Đan Việt thống lãnh nhân dân, trải qua trăm ngàn vạn năm.

Rồi trong lúc khác, Thánh Vương Ðảnh Sanh lại nảy sanh niệm này: Nay ta có đất Diêm Phù, nhân dân thịnh vượng, nhiều thứ trân bảo, cũng có mưa bảy báu ngập đến đầu gối, nay ta cũng lại có đất Cù Da Ni, Phất Vu Đệ và Uất Ðan Việt này, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo.

Ta cũng từng theo các Trưởng Lão kỳ cựu nghe có Cõi Trời Ba Mươi Ba khoái lạc không đâu bằng, thọ mạng rất lâu, cơm áo tự nhiên, ngọc nữ vây quanh không kể xiết. Nay ta nên đến thống lãnh Thiên Cung đó, dùng pháp cai trị.

Bấy giờ, này A Nan! Thánh Vương Ðảnh Sanh vừa sanh niệm này, liền đem bốn bộ binh, từ Uất Đan Việt biến mất, rồi lên đến Cõi Trời Ba Mươi Ba.

Lúc đó, Thiên Ðế Thích từ xa thấy Thánh Vương Ðảnh Sanh đến, liền nói: Chào mừng Ðại Vương! Mời đến đây ngồi!

Bấy giờ, này A Nan, Thánh Vương Ðảnh Sanh liền cùng Thích Đề Hoàn Nhân ngồi chung một Tòa. Hai người cùng ngồi không thể phân biệt được, nhan mạo, cử động, ngôn ngữ, âm thanh không khác một chút nào.

Bấy giờ, này A Nan, Thánh Vương Ðảnh Sanh ở đó trải qua vài trăm ngàn năm, rồi liền sanh niệm này: Nay ta có đất Diêm Phù này, nhân dân thịnh vượng, có nhiều trân bảo, cũng có mưa bảy báu ngập đến đầu gối. Cũng có Cù Da Ni, lại cũng có Phất Vu Đệ, cũng lại có Uất Đan Việt, nhân dân thịnh vượng, nhiều thứ trân bảo. Nay ta đến Cõi Trời Ba Mươi Ba này, giờ ta nên hại Thiên Ðế Thích này, rồi ở đây riêng làm Vua Chư Thiên.

Bấy giờ, này A Nan, Thánh Vương Ðảnh Sanh vừa sanh niệm này, liền từ trên tòa tự rơi xuống đến đất Diêm Phù và bốn bộ binh cũng đều đọa lạc.

Lúc đó, xe báu cũng mất chẳng biết ở đâu, voi báu, ngựa báu đồng thời chết hết, châu báu tự diệt, ngọc nữ báu, Cư Sĩ báu, điển binh báu đều mạng chung. Bấy giờ Thánh Vương Ðảnh Sanh thân bị bệnh nặng.

Các tông tộc, thân thuộc đều tụ tập hỏi thăm bệnh Vua: Thế nào, Ðại Vương, giả sử Ðại Vương mạng chung rồi, có người đến hỏi nghĩa này: Ðại Vương Ðảnh Sanh lúc mạng chung có lời dạy nào?

Nếu có người hỏi như thế sẽ đáp ra sao?

Thánh Vương Ðảnh Sanh đáp:

Nếu như ta mạng chung, sau khi mạng chung có người đến hỏi thì đáp: Vua Ðảnh Sanh thống lãnh bốn thiên hạ này mà không chán đủ, lại đến Cõi Trời Ba Mươi Ba, ở đó trải qua vài trăm ngàn năm. Ý còn sanh tham muốn hại Thiên Ðế rồi tự đọa lạc mà mạng chung.

A Nan! Nay thầy chớ ôm lòng hoài nghi, Vua Ðảnh Sanh lúc đó đâu phải người nào khác.

Chớ xem như thế!

Vì cớ sao?

Vua Ðảnh Sanh chính là thân ta vậy. Lúc đó, ta thống lãnh bốn thiên hạ này và đến Cõi Trời Ba Mươi Ba ở trong ngũ dục không có chán đủ.

A Nan! Hãy dùng cách thức này chứng biết chỗ hướng đến. Vì nỗi lòng tham dục, tăng thêm tưởng này, ở trong ái dục không biết chán đủ. Muốn cầu chán đủ, nên theo trong trí tuệ Thánh Hiền mà cầu.

Bấy giờ Thế Tôn ở trong đại chúng liền nói kệ:

Tham dâm như lúc mưa,

Ðối dục không nhàm chán,

Vui ít mà khổ nhiều,

Ðiều người trí từ bỏ.

Chính dù hưởng Thiên dục,

Năm lạc tự vui chơi,

Không bằng đoạn tâm ái,

Ðệ tử bậc Chánh Giác.

Tham dục kéo ức kiếp,

Phước hết lại vào ngục,

Hưởng vui há bao lâu,

Liền chịu khổ địa ngục.

Thế nên, này A Nan, hãy dùng cách thức này biết dục mà bỏ dục, trọn không khởi tưởng này.

Như thế, này các Tỳ Kheo, hãy học điều này. Bấy giờ A Nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường