Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Tám - Thập Nhất Diện Quán Thế âm Thần Chú Kinh - Tập Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐÀ LA NI TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

A Địa Cồ Đa, Đời Đường  

PHẦN TÁM

THẬP NHẤT DIỆN

QUÁN THẾ ÂM THẦN CHÚ KINH  

TẬP MỘT  

Tôi nghe như vậy!

Một thời Đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật. Gṛdhra kuṭa trong thành Vương Xá. Rāja gṛha cùng với vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát, Đại Chúng đến dự, trước sau vây quanh.

Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. Avalokiteśvara cùng với vô số Hiền Thánh Trì Chú. Mantra dhāra đến dự, trước sau vây quanh. Đến chỗ của Đức Phật xong, cúi năm vóc sát đất đảnh lễ bàn chân của Đức Phật. Lễ bàn chân của Đức Phật xong, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi lui ra ngồi một bên.

Thời Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con có Tâm Chú. Hṛdaya mantra tên là Thập Nhất Diện. Eka daśa mukhaṃ có đủ vô lượng Đại Đà La Ni. Mahā dhāraṇī kèm các Ấn pháp. Mudrā dharma với vô lượng Đàn Maṇḍala.

Nay con xin nói, vì tất cả chúng sanh: Muốn khiến cho tất cả chúng sanh niệm thiện pháp. Kuśala dharma, muốn khiến cho tất cả chúng sanh không có lo lắng bực bội, vì trừ tất cả bệnh của chúng sanh, làm cho tất cả chướng nạn, tai quái, mộng ác đều trừ diệt, muốn trừ tất cả bệnh chết đột ngột, muốn trừ các kẻ có tâm ác khiến cho điều nhu, muốn trừ tất cả các Ma, Quỷ, Thần, chướng nạn chẳng dấy lên.

Thế Tôn! Con chưa từng thấy: Hoặc Trời. Deva, hoặc Ma. Mārā, hoặc Đế Thích. Indra, hoặc Sa Môn Śramaṇa, hoặc Bà La Môn.

Brāhmaṇa… có thể thọ trì pháp như vậy: Hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc viết chép lưu bày, hoặc dùng pháp này phòng hộ thân ấy, hoặc dùng Ấn này ấn vào nước, Chú vào xong tắm gội thân ấy. Hoặc vào trận chiến đấu, hoặc bị trúng độc… người trì pháp này thì tất cả các nạn không có chỗ gây tạo, chỉ có tai vạ đời trước. Túc ương thì chẳng trừ được. Pháp như vậy là nơi mà tất cả Chư Phật đã niệm. Chú pháp này của con là nơi mà tất cả Chư Phật đã ghi nhận.

Thế Tôn! Con nhớ cách nay hơn hằng hà sa số Kiếp, có Đức Phật tên là Bách Liên Hoa Nhãn Đảnh Vô Chướng Ngại công đức Quang Minh Vương Như Lai Śata padma nayanacūḍāpratihata raṅgavela kiraṇa rāja tathāgata. Vào lúc đó, con ở tại chỗ của Đức Phật ấy làm vua trong Đại Trì Chú Tiên Nhân.

Mahā mantra dhāraṛṣi ở chỗ của Đức Phật ấy mới được pháp này. Khi được pháp này thời Chư Phật mười phương đều hiện ngay trước mắt, thấy Phật hiện xong đột nhiên liền được Trí Jñāna chưa từng có. Nên biết pháp này có Thần Lực như vậy, cũng hay lợi ích cho vô lượng chúng sanh.

Chính vì thế nên biết: Nếu có thiện nam tử. Kula putra, thiện nữ nhân. Kula putrī có thể ngày đêm ân cần đọc tụng Jāpa, đừng khiến cho quên mất.

Khi trì Chú này thời đừng chạy theo cảnh khác. Vào lúc sáng sớm, tắm gội thân ấy, mặc áo sạch mới, thỏ trì pháp này, kết Ấn hộ thân, dùng bùn sạch xoa tô Đàn, tùy ý vuông tròn, rộng hẹp, lớn nhỏ. kết giới xong thỉnh Quán Thế Âm. Avalokiteśvara ngồi ở trên Đàn, đốt hương rải hoa, mọi loại cúng dường, lễ bái, tụng Chú một trăm lẻ tám biến.

Người trì Chú này ngay thân đời này liền được mười loại quả báo.

Nhóm nào là mười?

1. Thân thường không có bệnh.

2. Luôn được Chư Phật mười phương nghĩ nhớ.

3. Tất cả tài vật, quần áo, thức ăn uống tự nhiên sung túc, luôn không có túng thiếu.

4. Hay phá oán địch.

5. Hay khiến cho tất cả chúng sanh đều sanh tâm từ. Maitra citta.

6. Tất cả cổ độc, tất cả bệnh nóng bức không thể xâm hại.

7. Tất cả đao, gậy chẳng thể gây hại.

8. Tất cả nạn về nước chẳng thể cuốn chìm.

9. Tất cả nạn về lửa chẳng thể thiêu đốt mười.

10. Chẳng bị tất cả cái chết đột ngột.

Đây gọi là mười.

Lại được bốn loại quả báo.

Nhóm nào là bốn?

1. Chẳng bị tất cả cầm thú gây hại.

2. Vĩnh viễn chẳng bị rơi vào địa ngục.

3. Khi lâm chung thời được thấy tất cả Chư Phật mười phương.

4. Sau khi mạng chung thì sanh về nước của Đức Vô Lượng Thọ. Amitāyus.

Thế Tôn! Con nhớ vượt qua hằng hà sa số kiếp, lại vượt qua hằng hà sa số kiếp, khi ấy có Đức Phật tên là Mạn Đà La Hương Như Lai. Mandārava gandhatathāgata. Con ở chỗ của Đức Phật ấy làm thân Ưu Bà Tắc. Upāsaka kāya, ở chỗ của Đức Phật ấy lại được pháp này. Được pháp này xong, ở bốn phương kiếp vượt qua bờ mé sinh tử.

Khi nói pháp này thời được Nhất Thiết Chư Phật đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, trí tuệ tạng pháp môn. Sarva buddhānāṃ mahā maitra mahā kāruṇamahā mudita mahopekṣa jñāna prajñā garbha dharma pryāya.

Dùng sức của pháp môn này cho nên hay cứu: Ngục tù, cột trói, gông cùm, xiềng xích, đang chịu hình phạt, nhóm nạn nước lửa, mọi loại khổ não của tất cả chúng sanh. Con luôn cứu giúp khiến được giải thoát. Tất cả hàng Dạ Xoa Yakṣa, La Sát.

Rākṣasa do sức của pháp Ấn Đà La Ni. Dharma mudrā dhāraṇī này khiến cho hàng Dạ Xoa, La Sát này đều phát Tâm hiền thiện. Kuśala citta, đầy đủ công đức. Guṇa, liền phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Anuttara samyaksaṃbodhi cittam utpadaṃ: Phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

pháp này của con có sức mạnh như vậy. Giả sử lại có người phạm bốn tội nặng với năm tội nghịch mà hay trì pháp này, đọc tụng một biến Đà La Ni thì hết thảy tất cả gốc hận, tội nặng đều được trừ diệt.

Người tụng Chú này có công đức như vậy, huống chi là lại y theo sự dạy bảo, hay làm Ấn pháp, tụng trì Chú. Nên biết người này ở vạn vạn ức na do tha chỗ của Chư Phật, từng nghe pháp này, nay lại được nghe, huống chi là người lại thọ trì, đọc tụng ngày đêm chẳng quên. Người này, nếu tâm có chỗ nghĩ nhớ thì con khiến cho mãn nguyện ấy.

Nếu lại có người vào ngày mười bốn hoặc ngày mười năm của tháng, dùng nước nóng thơm tắm rửa thân ấy, mặc áo sạch mới, một lần lên nhà xí thì một lần tắm rửa, như áo sạch này chẳng được mặc khi đi nhà xí. Khi hành pháp này thời trọn ngày nhịn ăn, làm Ấn hộ thân, kết giới pháp xong, tụng Đà La Ni cho đến sáng.

Trong Đạo Tràng ấy, để tượng Quán Thế Âm, làm Thỉnh Quán Thế Âm Ấn, tụng Chú, treo mọi loại phan, lọng đủ màu, hương hoa cúng dường. Khi bắt đầu vào Đạo Tràng đều nên ân trọng, chí tâm phụng thỉnh Chư Phật mười phương, ân cần sám hối, khen ngơi Tam Bảo.

Lễ ba bái xong, ngay ở trước Mặt Tượng trải một tòa ngồi, quỳ gối cung kính, chí tâm phát nguyện, làm Sổ Châu Ấn, nắm bấm xâu chuỗi, một lòng tụng Chú một ngàn không trăm lẻ tám biến cũng được không có lỗi.

Tiếp theo, bưng lư hương, đốt hương rồi nói: Nơi đây không có mọi loại thức ăn uống thượng vị, thật đáng xấu hổ, xin thứ lỗi cho.

Thế Tôn! Do sức Ấn Chú của nhóm pháp này, danh hiệu tôn quý khó có thể được nghe. Nếu có người xưng niệm trăm ngàn câu trí na do tha danh hiệu của Chư Phật. Lại có người chỉ tạm thời xưng danh hiệu của con, thì phước của hai người ấy ngang bằng nhau, không có khác.

Lúc đó, Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân ngày đêm ân cần xưng danh hiệu của con thì đều được A Tỳ Bạt Trí Địa.

Bất Thoái Địa, thân hiện tại được lìa tất cả khổ não, tất cả chướng nạn, tất cả không có sợ hãi, với tội của ba độc đều được trừ khỏi, huống chi là lại có người y theo sự dạy bảo này, như pháp tu hành. Nên biết người này liền được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác như ngay bên trong lòng bàn tay.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Lành thay! Lành thay thiện nam tử! Ông mới hay đối với tất cả chúng sanh, khởi tâm đại từ đại bi mà muốn mở bày pháp môn của nhóm Đại Thần Chú Ấn này.

Này thiện nam tử! Ông do sức phương tiện của pháp này, cho nên đều hay cứu thoát hết thảy bệnh khổ, chướng nạn, sự đáng sợ, thân miệng ý ác của tất cả chúng sanh. Cho đến an lập tất cả chúng sanh vào tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, quyết định không có nghi ngờ.

Thiện nam tử! Pháp môn của nhóm Đà La Ni Ấn này. Ta cũng tùy vui nhận lấy nhóm pháp Thần Chú Ấn của ông, ta cũng ấn khả.

Này thiện nam tử! Nay ông hãy nói.

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, cúi năm vóc sát đất, đảnh lễ bàn chân của Đức Phật, quỳ gối phải sát đất rồi bạch Phật rằng: Thế Tôn!

Nay con nương theo thần lực của Phật, thứ tự nói pháp Thức công năng của Ấn, Đà La Ni, Đàn Liền nói Chú là:

Na mô la đá na đá la dạ da na mô a lê da bà lộ chỉ đế nhiếp bạt la da Bồ Đề tát đỏa da ma ha tát đỏa da ma ha ca lô ni ca da đá điệt tha Úm đà la đà la địa lý địa lý đỗ lỗ đỗ lỗ nhất tai, phạt tai củ lê, vĩ củ lê xà lê xà lê bát la xà lê, bát la xà lê cưu tố mê cưu tô ma bà lê nhất lý, nhĩ lý chỉ lý, chỉ trưng xà la ma ba na da bát la ma, du đà tát đỏa ma ha ca lô ni ca sa ha.

Khi Quán Thế Âm Bồ Tát nói Đà La Ni này thời Phật, chúng Bồ Tát, Kim Cang, Chư Thiên cao giọng khen ngợi rằng: Lành thay! Lành thay!

Lúc đó, quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Đây là Căn Bản Đà La Ni. Mūla dhāraṇī. Nếu có niệm tụng sẽ được công đức thắng lợi như đã nói bên trên. Đã nói Căn Bản Đà La Ni xong, tiếp theo nói pháp bảy ngày cúng dường Đàn.

Nếu có Sa Môn hoặc nhóm thiện nam tử tụng yếu quyết nơi Pháp Tạng bí mật, thành tựu Đại Nghiệm. Hoặc các Quốc Vương sanh tâm quyết định sám hối mọi tội. Nguyện muốn thấy nghe Đô Đại Đạo Tràng Pháp Đàn Hội.

Trước tiên, tìm nơi chốn thuộc nhà viện rộng rãi, nhà lớn sáng sủa với Chùa Chiền đẹp, Phật Đường, đất lộ thiên cũng được. Quyết định biết nơi chốn xong, lúc sáng sớm của ngày một trong kỳ Bạch Nguyệt, A Xà Lê Ācārya với các đệ tử Śiṣya dùng nước nóng thơm tắm gội, đem các hương hoa đến nơi chốn ấy.

A Xà Lê dùng tay cầm Bạt Chiết La.

Vajra: Chày Kim Cang, thứu tự hỏi các nhóm đệ tử rằng: Các ngươi quyết định muốn học Pháp Tạng bí mật.

Guhya dharma garbha của Chư Phật mà chẳng sanh ngi ngờ chăng?

Đồ Chúng đáp rằng: Chúng con muốn học Pháp Tạng của Chư Phật, quyết định tin tưởng chân thành, chẳng sanh tâm nghi ngờ.

Như vậy theo thứ tự hỏi ba lần, đáp ba lần.

Như vậy đáp xong.

Tiếp theo, A Xà Lê dùng tay ấn lên nhóm lư hương, nước… Chú xong, tay bưng lư hương, quỳ gối, đốt hương, khải bạch tất cả Chư Phật, bát nhã Bồ Tát, Kim Cang, Chư Thiên, cùng với tất cả nghiệp đạo minh kỳ: Nay đất này là đất của con.

Nay con muốn lập Hội của Đô Đại Đạo Tràng Pháp Đàn bảy ngày bảy đêm, cúng dường tất cả mười phương pháp giới, Chư Phật Thế Tôn với bát nhã Ba la mật đa, các chúng Bồ Tát, Kim Cang, Chư Thiên… lãnh các đồ chúng, quyết định chọn lấy các chứng thành pháp môn khó nghĩ bàn của tất cả Pháp Tạng bí mật.

Con muốn hộ thân, kết giới, việc pháp… ngay bên trong Viện này: Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc, trên, dưới… hết thảy tất cả nhóm phá hoại chánh pháp, Tỳ Na Dạ Ca. Vināyaka, thần quỷ ác đều ra khỏi nơi kết giới của con ngoài bảy dặm.

Nếu nhóm thần quỷ hiền thiện, hộ giữ chánh pháp, ở trong Phật Pháp của con có lợi ích thì tùy theo ý mà trụ. Nói lời này xong. Tiếp đến, đều y theo pháp Quân Trà Lợi ấy tịch trừ, kết giới.

Đã kết giới xong, liền khiết đào xới loại bỏ tất cả nhóm vật: Đất ác, xương, tóc, than, vỏ trấu, gạch, đá vụn … bên trong đất mười khuỷu tay. Nếu đất cực tốt thì đào sâu xuống một gang tay. Nếu là bậc trung thì đào xuống một khuỷu tay.

Nếu là đất bậc hạ thì đào sâu xuống hai khuỷu tay, nếu là đất bậc hạ hạ thì đào sâu xuống ba khuỷu tay… loại bỏ hết vật ác xong, đem đất tốt sạch lấp đầy, đè nện cứng chắc khiến cho bằng phẳng, làm nền cao là tốt nhất.

Tiếp theo, ngày thứ hai với ngày thứ ba dùng bùn tô trét đất. Tiếp theo, ngày thứ bốn dùng dùng phân bò, bùn thơm tô trét đất ấy xong.

Tiếp theo, đem sợi dây giăng kéo một vòng tám khuỷu tay ở bốn phương, chấm xuống một điểm ở bốn góc. Lại đem sợi dây từ góc Đông Bắc đến góc Tây Nam, từ góc Đông Nam đến góc Tây Bắc giăng kéo giao chéo nhau. Trong chỗ giao chéo nhau chấm xuống một điểm. Đào đất sâu xuống một gang tay, chôn năm thứ báu và năm thứ lúa đậu.

Năm thứ báu ấy là: Một là vàng, hai là bạc, ba là trân châu, bốn là san hô, năm là hổ phách.

Năm thứ lúa đậu là: Một là đại mạch, hai là tiểu mạch, ba là lúa gạo, bốn là hạt đậu nhỏ, năm là mè.

Dùng một tấm lụa gói vật báu, lúa đậu. Lấy sợi dây năm màu cột tấm lụa lại rồi đem chôn, một đầu của sợi dây năm màu ấy ló ra khỏi mặt đất, dài khoảng năm ngón tay. Nhóm vật báu này vĩnh viễn không được lấy ra. Tiếp theo, làm đại kết giới.

Pháp kết giới ấy: Cầm Bạt Chiết La.

Vajra: Đường gọi là chày Kim Cang nhiễu quanh bên ngoài Đàn theo bên phải, chạy mau ba vòng.

Làm Tỳ Na Dạ Ca Chủng Chủng kết giới Ấn ấn lên mặt đất, bốn phương, phương bên trên… tụng Chú làm nhóm pháp: Ấn, khải cáo, tịch trừ, kết giới như ngày đầu tiên nói. Y theo thứ tự pháp dùng của Quân Trà Lợi. Kuṇḍali.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần