Phật Thuyết Kinh đại An Ban Thủ ý - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI AN BAN THỦ Ý
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẦN BỐN
Tám hạnh là:
Hạnh thứ nhất là trực niệm thuộc về tâm, thường niệm đạo. Hạnh thứ hai là trực ngữ thuộc về miệng, đoạn bốn ý.
Hạnh thứ ba là trực quán thuộc về thân, quan sát trong ngoài thân.
Hạnh thứ tư là trực kiến, tin đạo.
Hạnh thứ năm là trực hành, chẳng theo bốn ác là bốn điên đảo. Hạnh thứ sáu là trực trị, đoạn trừ ý.
Hạnh thứ bảy là trực ý, chẳng rơi vào tham dục.
Hạnh thứ tám là trực định, chính tâm vậy. Đó là tám hạnh mà Phật, Bích Chi Phật, A La Hán chẳng hành vậy.
Hạnh thứ nhất là trực niệm.
Những gì là trực niệm?
Gọi chẳng niệm muôn vật, ý chẳng rơi vào trong đó. Đó là trực niệm. Niệm vạn vật mà ý rơi vào trong đó là chẳng trực niệm vậy.
Bốn ý chỉ thì một ý dừng là thân niệm dứt, hai ý dừng là niệm thống dương, ba ý dừng là niệm ý dứt vào ra, bốn ý chỉ là niệm pháp nhân duyên. Đó là bốn ý chỉ vậy. Đạo nhân phải niệm bốn ý chỉ này.
Một là vì ta đời trước ái thân nên chẳng được giải thoát.
Hai là nay có oán gia kịch liệt.
Vì sao vậy?
Vì có sở dục thì ái sinh ra nên phải đoạn dứt mà đoạn rồi là bên ngoài thân quán chỉ vậy. Bốn ý chỉ thì ý chỉ là ý chẳng tại thân là chỉ, ý chẳng tại thống dương là chỉ, ý chẳng phải tại ý là chỉ, ý chẳng tại pháp là chỉ. Ý theo sắc thì thức liền sinh ra thì đó là chẳng chỉ vậy.
Hỏi: Người vì sao chẳng rơi vào bốn ý chỉ?
Đáp: Do người chẳng niệm khổ, không, chẳng phải thân, bất tịnh nên chẳng rơi vào bốn ý chỉ. Nếu ý người thường niệm khổ, không, chẳng phải thân, bất tịnh mà thường niệm bốn việc này chẳng rời khỏi, thì liền mau chóng được bốn ý chỉ vậy.
Hỏi: Những gì là ý chỉ của thân?
Đáp: Niệm bịnh, già, chết là ý chỉ của thân.
Những gì là ý chỉ của thống dương?
Điều chẳng vừa ý chính là ý chỉ của thống dương.
Những gì là ý chỉ của ý?
Niệm rồi lại niệm chính là ý chỉ của ý.
Những gì là ý chỉ của pháp?
Gọi thời gian qua là hành, đáp trở lại là pháp, cũng gọi làm cái này được cái này thì đó là pháp ý chỉ vậy.
Bốn ý chỉ có bốn nhóm:
Một là niệm phi thường ý chỉ.
Hai là niệm thân khổ ý chỉ.
Ba là niệm hữu rỗng không ý chỉ.
Bốn là niệm vui bất tịnh ý chỉ.
Tất cả việc thiên hạ đều rơi vào thân thống dương, rơi vào pháp đều đen chẳng qua khỏi bốn việc này. Bốn ý chỉ thì một là chỉ có niệm dứt chẳng tà niệm.
Hai là chỉ niệm thiện chẳng niệm ác.
Ba là tự niệm thân chẳng phải ngã, vạn vật sở hữu đều chẳng phải ngã sở nên liền chẳng hướng theo nữa.
Bốn là mắt chẳng nhìn mà ý ở tại trong pháp.
Đó gọi là bốn ý chỉ vậy.
Đạo nhân phải hành bốn ý chỉ:
Một là nhãn sắc phải tính kể là ác lộ nước ác trong thân.
Hai là ý vui mừng niệm lạc phải niệm thống dương khổ.
Ba là ý ta sân thì ý người khác cũng sân, ý ta chuyển thì ý người khác cũng chuyển nên liền chẳng chuyển ý.
Bốn là ý ta ganh ghét thì ý người khác cũng ganh ghét, ta nghĩ người khác xấu thì người khác cũng nghĩ ta xấu nên liền chẳng nghĩ. Đó là pháp vậy. Thân ý chỉ là tự quan sát thân, quan sát thân người khác.
Cái gì là thân?
Muốn nói thống dương là thân thì thống không có số tính. Muốn nói ý là thân thì lại chẳng phải thân có ý quá khứ, ý vị lai. Muốn nói pháp là thân thì lại chẳng phải thân có pháp quá khứ, pháp vị lai.
Muốn nói hành là thân mà hành không có hình thì biết là chẳng phải thân. Được sự tính kể này là bốn ý chỉ vậy. Ý chẳng rơi vào sắc niệm thì thức cũng chẳng sinh ra. Tai, mũi, miệng, thân cũng vậy. Ý chẳng tại thân là tâm. Ý chẳng tại thống dương, ý chẳng tại niệm, ý chẳng tại pháp là tâm vậy.
Hỏi: Ai là người chủ biết thân ý thống dương?
Đáp: Có thân biết thân ý, thống dương biết ý thống dương, ý biết ý của ý như có đói biết ý đói, có khát biết ý khát, có lạnh biết ý lạnh, có nóng biết ý nóng… do sự phân biệt này mà biết vậy. Ý thân khởi thân ý, ý thống dương khởi thống dương ý, ý ý khởi ý ý, ý pháp khởi pháp ý.
Bốn Ý chỉ nghĩa là chế ngự ý ác khiến cho nó chẳng khởi lên. Đó là chỉ vậy. Bốn ý chỉ cũng theo bốn thiền, bốn thiền cũng theo bốn ý chỉ mà theo bốn ý chỉ là gần đạo. Chẳng đắm trước ác thì thiện liền sinh. Bốn thiền là bốn ý định, là dừng ý vậy.
Hành đạo có bốn nhân duyên:
Một là chỉ dừng thân.
Hai là chỉ thống dương.
Ba là chỉ ý.
Bốn là chỉ pháp.
Chỉ thân nghĩa là thấy sắc nghĩa là bất tịnh. Chỉ thống dương nghĩa là chẳng tự cống cao. Chỉ ý nghĩa là chẳng sân nhuế. Chỉ pháp nghĩa là chẳng nghi ngờ. Đạo nhân hành bốn ý chỉ thì khi ý khởi niệm sinh ra tức thời biết thuốc đối trị. Đã được một ý chỉ thì liền được bốn ý chỉ vậy.
Bốn ý định:
Một là tự quán thân cũng lại quán thân người khác.
Hai là tự quán thống dương cũng lại quán thống dương người khác.
Ba là tự quán tâm cũng lại quán tâm người khác.
Bốn là tự quán nhân duyên pháp cũng lại quán nhân duyên pháp người khác. Thân như vậy, tất cả quan sát nhân duyên trong ngoài, việc thành bại thì phải nghĩ thân ta cũng phải thành bại như vậy. Đó là bốn ý định vậy.
Người muốn dừng bốn ý thì bỏ là ngoài, nhiếp lấy là trong. Đã nhiếp ý là ngoài, bỏ ý là trong vậy. Quan sát thân người khác nghĩa là tự quan sát thân mà chẳng lìa bỏ người khác tức là quan sát khổ của thân người khác.
Quán thân người khác là chẳng phải. Thống dương, ý, pháp cũng vậy. Tự tham thân thì phải quan sát thân người khác, nghĩ đến thân người khác tức là tự quan sát thân. Như vậy là ý chỉ.
Hỏi: Ý thấy hành vì sao là chỉ?
Đáp: Ý do tự quan sát thân tham liền khiến cho mình quan sát thân người khác thì ý từ tham chuyển nên phải dừng. Nếu ý tham thân người khác thì phải trở lại tự quán thân vậy.
Có lúc tự quán thân, chẳng quán thân người khác.
Có lúc phải quán thân người khác, chẳng phải tự quán thân.
Có lúc có thể tự quán thân, cũng có thể quán thân người khác.
Có lúc chẳng thể tự quán thân, cũng chẳng thể quán thân người khác. Tự quán thân là tính toán để quán thân người khác. Nếu ý chẳng dừng cần phải tự niệm thân là mê trước rồi liền chuyển mê trước qua thân người khác. Quan sát thân người thấy sắc trắng trẻo no tròn, mày đen, môi đỏ.
Như thấy béo tốt no tròn thì phải nghĩ đến người chết trương phình, thấy trắng trẻo phải nghĩ đến xương người chết, thấy mày đen phải nghĩ đến sắc sạm đen của người chết, thấy môi đỏ phải nghĩ đến màu đỏ của máu. So tính các sở hữu của bản thân để được những ý đó, rồi liền chuyển đổi, chẳng yêu thân nữa vậy.
Quán có trong ngoài: Tật đố, sân nhuế, ngu si thì phải quan sát bên trong, còn tham dâm thì phải quan sát bên ngoài. Tham thì phải nghĩ đến sự phi thường, bại hoại. Dâm thì phải nghĩ đến ác lộ nước bẩn sở hữu của đối tượng. Như tự quan sát dâm của thân thì phải nghĩ đến bốn ý đoạn vậy.
Quán có hai nhóm, một là quán nội, hai là quán ngoại. Quan sát thân có ba mươi sáu vật mà tất cả có đối tượng đều thuộc về ngoại quán.
Quán vô sở hữu là đạo thì đó là nội quán vậy.
Quán có ba việc:
Một là quán thân có bốn sắc là đen, xanh, đỏ, trắng.
Hai là quán sinh tử.
Ba là quán chín đường: Quán trắng thấy đen là bất tịnh. Phải trước nghe để học rồi sau đắc đạo. Chưa đắc đạo là vì nghe còn phân biệt là chứng được, là biết vậy.
Quán có bốn, một là thân quán, hai là ý quán, ba là hành quán, bốn là đạo quán. Đó là bốn quán. Ví như người giữ đồ vật mà kẻ trộm đến liền bỏ vật. Nhìn thấy kẻ trộm rồi được quán liền bỏ thân quán vật vậy.
Quán có hai việc: Một là quan sát những sắc sở hữu ở bên ngoài. Hai là nội quán nghĩa là không sở hữu.
Quán không rồi thì được bốn thiền.
Quán không không sở hữu, có ý, không ý, không sở hữu thì đó là không, cũng gọi là bốn bỏ được bốn thiền vậy. Hết cũ chẳng nhận mới là bốn ý chỉ. Cũ hết, mới dừng là bốn ý đoạn. Cũ hết, mới đoạn dứt là bốn thần túc. Biết đủ chẳng cầu nữa là thủ ý. Ý là hết, sinh là mới, lão là cũ. Chết là thân thể, hoại bại là hết vậy.
Bốn ý đoạn nghĩa là thường nghĩ đến đạo. Niệm thiện sinh ra liền bị niệm ác cắt đứt là đoạn dứt Đạo. Niệm thiện dừng liền sinh niệm ác là chẳng đoạn vậy.
Bốn ý đoạn là ý tự chẳng muốn hướng đến điều ác là đoạn. Cũng có nghĩa là chẳng niệm tội là đoạn.
Bốn Thần túc: Một là thần túc thân, hai là thần túc miệng, ba là thần túc ý, bốn là thần túc đạo. Nghĩ bay phi mà niệm chẳng muốn diệt là chẳng theo đạo vậy.
Bốn Y đề bát: Bốn là số lượng, y đề là chỉ dừng, bát là thần túc. Muốn bay liền bay được, có khi tinh tấn ngồi bảy ngày liền được, hoặc có khi đến bảy tháng hay bảy năm.
Được thần túc có thể ở tại thế gian lâu chẳng chết nhờ có thuốc:
Một là ý chẳng chuyển.
Hai là tín.
Ba là niệm.
Bốn là có đế.
Năm là có thông tuệ.
Đó là thuốc thần túc.
Được bốn thần túc chẳng ở tại thế gian lâu do có ba nhân duyên:
Một là tự chán thân xú ác ấy nên bỏ.
Hai là không có người có thể theo thính thọ Kinh đạo nên bỏ.
Ba là sợ kẻ oán ác bài báng bị tội nên bỏ.
Thần túc có chín nhóm là: Cưỡi xe ngựa, đi bộ mà chạy nhanh cũng là thần túc. Cấm giới bên ngoài kiên cố cũng là thần túc. Chí thành cũng là thần túc. Nhẫn nhục cũng là thần túc vậy. Hành thần túc thì ý phải bay.
Hỏi: Sao gọi là ý bay?
Đáp: Có bốn nhân duyên:
Một là tín.
Hai là tinh tấn.
Ba là định.
Bốn là chẳng chuyển ý.
Những gì là tín?
Tín phi hành.
Cái gì là tinh tấn?
Phi hành.
Cái gì là định?
Phi hành.
Cái gì là chẳng chuyển ý?
Nghĩa là chấp trước phi hành chẳng chuyển ý vậy. Thân chẳng muốn làm đạo mà ý muốn làm liền làm. Thần túc như vậy là ý muốn bay thì liền có thể bay vậy. Năm căn ví như trồng vật bền vững mới sinh ra căn rễ, chẳng bền thì không có căn. Tín là nước mưa, chẳng chuyển ý là lực. Muôn vật thấy được là căn, chế ngự ý là lực vậy.
Trong tín căn có ba ấm:
Một là thống dương.
Hai là tư tưởng.
Ba là thức ấm.
Trong định căn có một ấm là thức ấm vậy.
Năm căn, năm lực, bảy giác ý cho dù ở trong có một ấm, trong có hai ấm, trong có ba ấm, trong có bốn ấm thì cũng đều có ấm.
Hỏi: Đạo hạnh này vì duyên gì mà có ấm?
Đáp: Do Nê Hoàn không có ấm nên còn lại đều có ấm vậy. Ba giác trên của bảy giác ý thuộc về miệng, ba giác giữa thuộc về thân, một giác cuối thuộc về ý.
Những gì là giác?
Niệm của niệm là giác, niệm của niệm là được. Giác được ý này thì liền theo đạo vậy. Ngoài bảy giác ý là rơi vào trong sinh tử. Bảy giác ý là theo đạo. Bên trong bảy giác ý là gọi ba mươi bảy phẩm Kinh. Bên ngoài bảy giác ý là gọi muôn vật vậy.
Giác là nhận thức sự việc thì liền theo giác ý vậy. Có giác ý liền theo đạo. Có giác ý rơi vào tội. Giác ba mươi bảy phẩm Kinh liền chánh ý thì đó là theo đạo. Giác thiện ác thì đó là rơi vào tội vậy.
Hỏi: Những gì là từ đế thân ý giữ?
Đáp: Thân giữ bảy giới, ý giữ ba giới. Đó là thân, ý giữ vậy. Từ đế ý được hưu tức là từ bốn đế nhân duyên của ý ngưng nghỉ.
Hưu là chỉ dừng, tức là tư suy nghĩ, đắc đạo là thọ tư nhận suy nghĩ vậy. Ham thích đạo pháp sẽ làm đạo là ái giác ý. Giữ đạo chẳng mất là lực giác ý. Đã được mười hơi thở, thân yên ổn là tức giác ý. Tự biết đã an là định giác ý.
Thân giữ ý, ý chẳng tẩu tán là trì giữ. Từ Đế tự tại, ý ở tại sở hành nghĩa là được bốn đế, cũng có thể niệm bốn ý chỉ, cũng có thể niệm bốn ý đoạn, cũng có thể niệm bốn thần túc, cũng có thể niệm năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám hạnh. Đó là ý tự tại. Tại sở hành theo đế quán tức là quán cốt yếu của ba mươi bảy phẩm Kinh. Đó là thủ ý.
Giác nghĩa là giác đế, chẳng thọ tội nữa. Tám hạnh có trong có ngoài. Thân là sát, đạo, dâm. Miệng là lưỡng thiệc, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ. Ý là tật đố, ngu si. Ba pháp đầu trên đây là mười việc ở ngoài, còn năm đạo trực là ở tại bên trong vậy.
Từ đế thủ đế: Từ là thần, thủ là hộ, nghĩa là hộ pháp chẳng phạm tội, đế là đạo. Biết chẳng phải thường, khổ, không, chẳng phải thân, bất tịnh là trực kiến. Người chẳng phải thường kể là thường, nghĩ khổ là vui, không kể là có, chẳng phải thân lấy làm thân thì đó là chẳng trực kiến vậy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Một - Một Pháp - Phẩm Mười Năm - Phẩm Không Thể Có ðược
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Ba Mươi Tám - Phẩm Lực - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Năm Mươi Ba