Phật Thuyết Kinh đại An Ban Thủ ý - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI AN BAN THỦ Ý
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẦN MỘT
Phàm an bát là đại thừa của các Đức Phật, dùng cứu tế sự trôi dạt của chúng sinh. Việc ấy có sáu để trị sáu tình. Tình có trong và ngoài. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý gọi là nội tình.
Sắc thanh, hương, vị, xúc tế cốt, tà niệm gọi là ngoại tình. Kinh nói rằng, các biển có mười hai việc là gọi sự thọ tà hạnh của sáu tình trong và ngoài, giống như biển thọ nhận các dòng chảy, người đói mơ ăn cơm dường như không đầy đủ.
Đồ chứa tâm tràn đầy, không vật nhỏ nào chẳng thấm, hoảng hốt, phảng phất, ra vào không gián đoạn, nhìn không thấy hình, nghe không có tiếng, ngược về trước không có.
Tìm về sau cũng không, vi tế thâm diệu hình thể không sợi tơ, cọng tóc, Phạm Thiên, Đế Thích, Tiên Thánh đã chẳng soi sáng, giống lặng yên mặc chủng đến đây hóa sinh ra ư?
Đó chẳng phải là cái nhìn thấy của phàm phu gọi là ấm. Giống như người gieo giống âm thầm kín đáo mở tay đổ hạt giống, chúng sinh sôi có đến hàng vạn ức mà người bên cạnh chẳng nhìn thấy hình dạng chúng, người gieo giống chẳng biết số lượng của chúng, một cái nát rơi xuống thì vạn cái mọc lên.
Trong khoảnh khắc gảy móng tay, tâm có chín trăm sáu mươi là chuyển, một ngày một đêm có mười ba ức ý. Ý có một mà thân tâm chẳng tự biết, giống như người gieo giống kia vậy.
Do đó dùng hạnh tịch tịnh ràng buộc ý vào hơi thở đếm từ một đến mười. Đến số mười chẳng lầm lẫn ý định tại đó. Tiểu định ba ngày, đại định bảy ngày, tịch tịnh không ý niệm khác ngây ra như chết gọi là nhất thiền.
Thiền là bỏ vậy! Bỏ mười ba ức ý niệm dơ bẩn. Đã thu hoạch số định rồi thì chuyển niệm trước theo trừ sạch tám ý ấy mà chính có hai ý là ý định ở chỗ dựa theo, do ở pháp tính vậy.
Cặn đục tiêu diệt, tâm hơi trong sạch thì gọi đó là nhị thiền. Lại trừ đi sự chú ý vào đầu mũi ấy thì gọi là chỉ. Được hạnh chỉ thì ba độc chạy tứ tán, năm ấm, sáu tối, các bẩn diệt hết. Đuốc tâm thắp sáng vượt qua ngọc Minh Nguyệt, lòng dâm tà bẩn giống như gương soi ở dưới bùn dơ lấm bẩn vậy.
Ngữa lên dùng soi Trời, úp xuống dùng thấu đất, sáng suốt Thánh đạt vạn cõi soi thấu, tuy có cái lớn của Trời Đất, nhưng không một người mà có thể nhìn thấy. Sở dĩ vậy là do sự vẩn đục ấy.
Mọi tâm cấu bẩn có thể vượt qua gương soi kia nếu được thầy giỏi nạo vót, mài dũa cho bụi mỏng, tối mờ quét sạch không còn. Đem tâm đó chiếu soi thì sợi lông, cọng tóc nhỏ nhặt mà không cái nhỏ nào chẳng rõ rệt.
Bẩn lui đi, sáng còn lại khiến cho tấm ấy hiển nhiên vậy. Tình tràn đầy, ý tán loạn thì nghĩ muôn điều chẳng biết một vậy. Giống như ở chợ buông thả lòng nghe ngóng, rộng tiếp nhận mọi âm thanh, lui về ở yên, nghĩ suy chẳng nhận biết tiếng nói một người.
Lòng buông ý thả, vẩn đục che sự thông suốt ấy. Còn như tự ở chỗ nhàn, tâm tư tịch mịch, chỉ không tà dục, kề tai lắng nghe thì vạn câu chẳng mất. Nửa lời nói ra ấy là do lòng lắng, ý trong vậy.
Hành tịch, chỉ ý treo ở đầu mũi gọi là Tam Thiền vậy. Trở lại quan sát thân ấy, từ đầu đến chân, ngược lại xét kỹ nước bẩn của nội thể, lông dựng đứng rậm rạp, còn nhìn thấy máu mũ, nước miếng, nước mũi.
Đối với tâm ấy đủ chiếu soi Trời, đất, người, vật. Những thứ ấy thịnh hoặc suy, không còn cũng chẳng mất, tin Phật, Tam Bảo, mọi tối đều sáng… đó gọi là Tứ Thiền. Nhiếp lấy tâm trở lại nghĩ các ấm đều diệt. Đó gọi là trở lại. Uế dục lặng hết, tâm ấy vô tưởng. Đó gọi là tịnh.
Người được hạnh an bát thì lòng phát lạnh liền sáng. Dùng ánh sáng này quan sát thì không chỗ tối nào chẳng nhìn thấy, việc từ vô số kiếp, việc mới đến, sự đổi thay nhân vật, các cõi hiện tại.
Trong đó sẵn có pháp hóa của Thế Tôn, việc tụng tập của đệ tử, không gì xa chẳng thấy, không tiếng gì chẳng nghe, hoảng hốt phảng phất, còn mất tự do, lớn khắp tám cực, nhỏ suốt mao ly, chế Trời Đất trụ mạng sống, thần đức mạnh hoại bệnh Trời, khuấy động ba ngàn di dời các cõi.
Tám bất tư nghị chẳng phải chỗ Phạm thăm dò, thần đức vô hạn là do sáu hạnh. Khi Đức Thế Tôn bắt đầu muốn nói Kinh ấy thì lớn đến chấn động, người Trời đổi sắc, ba ngàn an bát, người không thể tin.
Đến đây, Đức Thế Tôn hóa làm hai thân, một là Hà Đẳng, một là Tôn Chủ, diễn cho nghĩa ấy xuất hiện vậy. Đại Sĩ, Thượng Nhân sáu đôi, mười hai nhóm không ai chẳng chấp hành.
Có vị Bồ tát tên là An Thanh tự là Thế Cao, con của chính Hậu Vua nước An Tức, nhường nước cho chú đi lánh vào bổn thổ, nói nước Trung Quốc, ngao du khắp nơi, sau cùng liền vào ở Kinh Sư thủ Đô.
Ngài ấy là người học rộng, hiểu nhiều, thông suốt như thần, bảy chính đầy vơi, phong khí tốt xấu, núi lở đất động, châm cứu… các thuật, nhìn sắc diện biết bệnh, chim thú hót kêu không âm thanh nào chẳng soi thấu, ôm sự rộng rãi của hai nghi thức.
Thương xót sự ngu tối của lê dân, Ngài trước móc tai họ, rồi mở mắt họ, muốn cho họ nhìn sáng, nghe thông.
Rồi từ từ mới diễn bày Lục Độ chính chân, Ngài dịch Kinh an bát bí mật thâm áo này. Người học mà bụi trần dấy lên thì không gì chẳng trừ khử, gặp uế trược thì giữ gìn đạo đức thanh bạch vậy.
Tôi sinh ra muộn màng, bắt đầu có thể vác củi thì cha mẹ chết mất, ba thầy tam Sư vĩnh biệt, ngước nhìn mây bây, buồn không tín thọ, nói lời thương nhớ, nước mắt thầm rơi.
Phước xưa chưa hết nên tôi được hội kiến với Ngài Hàng Lâm ở Nam Dương, Ngài Bì Nghiệp ở Dĩnh Xuyên và Ngài Trần Tuệ ở Cối Kê. Ba vị hiền giả này hết lòng tin đạo, chấp trì đức hạnh, hoằng dương chánh pháp, hăng hái tiến tới, chí đạo chẳng mệt mỏi.
Tôi theo những vị ấy thỉnh vấn thì khuôn đồng phép hợp, nghĩa không sai khác. Ngài Trần Tuệ chú nghĩa, tôi giúp châm chước, chẳng phải sự truyền dạy của thầy nên chẳng dám tự do.
Lời nói của kẻ hèn nhiều vụng về, chẳng thấy ý Phật! Nguyện xin những vị Hiền minh Thánh triết cùng chung thẩm xét. Nghĩa cú thêm sự san định của bậc Thánh triết, chung hiển hiện thần dung ánh sáng rực của Thần.
Đức Phật ở tại nước Xá Kỳ Sấu của nước Việt Kỳ, cũng gọi một tên là nước Già Nặc Ca La. Đức Phật ngồi hành an bát thủ ý chín mươi ngày.
Đức Phật ngồi một mình chín mươi ngày là để suy nghĩ tính toán muốn độ thoát con người và những loài biết cử động của mười phương.
Ngài lại nói rằng: Ta hành an bát thủ ý chín mươi ngày thì an bát thủ ý được tự tại ý niệm từ. Trở lại hành an bát thủ ý, rồi lại thu ý hành niệm vậy. An là thân, bát là hơi thở, thủ ý là đạo. Thủ tức là cấm, cũng gọi là chẳng phạm giới. Cấm thì cũng là hộ.
Hộ là hộ khắp tất cả, không phạm điều gì. Ý là hơi thở, ý cũng là đạo vậy. An là sinh, bát là diệt, ý là nhân duyên, thủ tức là đạo vậy. An là đếm sổ, bát là theo nhau tướng tùy, thủ ý là dừng vậy. An là niệm đạo, bát là giải kết, thủ ý là chẳng rơi vào tội lỗi.
An là tránh tội, bát là chẳng vào tội, thủ ý là đạo. An là định, bát là không làm cho lay động, thủ ý là không loạn ý. An bát thủ ý gọi là chế ngự ý, đến được vô vi.
Ý niệm có chẳng được đạo, ý niệm không chẳng được đạo, cũng chẳng nghĩ có, cũng chẳng nghĩ không chính là ứng ứng với không định, ý theo đạo hạnh.
Có thì gọi là muôn vật, không thì gọi là nghi, cũng gọi là trống rỗng vậy. An là nhân duyên gốc, bát là không xứ sở. Đạo Nhân biết gốc không có chỗ theo đến, cũng biết diệt không xứ sở. Đó là thủ ý vậy.
An là thanh, bát là tịnh, thủ là vô, ý là vi. Đó là thanh tịnh vô vi. Vô thì gọi là sống hoạt, vi thì gọi là sinh, chẳng lại được khổ nên gọi là hoạt vậy. An là chưa, bát là khởi, do chưa khởi nên liền thủ ý.
Nếu đã khởi thì ý chạy đi vì chẳng thủ nên phải làm cho nó trở lại. Vậy nên Đức Phật nói an bát thủ ý vậy. An là thọ năm ấm, bát là trừ năm ấm, thủ ý là hiểu biết nhân duyên, chẳng theo thân, miệng, ý vậy. Thủ ý thì không sở trước là thủ ý, có sở trước thì chẳng là thủ ý.
Vì sao vậy?
Vì ý khởi rồi lại diệt. Ý chẳng lại khởi lên là đạo. Đó là thủ ý. Thủ ý là không khiến cho ý sinh ra. Nhân của sinh có chết là chẳng thủ ý. Không khiến cho ý chết, có nhân chết, có ý sinh cũng chẳng chết thì đó gọi là đạo vậy.
An Bát thủ ý có mười thông tuệ là Sổ Tức Tướng Tùy chỉ Quán Hoàn tịnh Tứ Đế. Đó là mười thông tuệ thành tựu, gọi là hợp ba mươi bảy phẩm Kinh làm hạnh thành vậy.
Thủ ý ví như đèn lửa có hai nhân duyên, một là phá hoại tối, hai là thấy sáng còn thủ ý thì một là phá hoại nghi, hai là thấy thông tuệ. Thủ ý thì ý từ nhân duyên sinh, sẽ duyên theo nhân duyên không chấp trước. Đó là thủ ý vậy.
Thủ ý có ba nhóm, một là giữ khiến cho chẳng được sinh, hai là đã sinh thì phải mau chóng diệt, ba là việc đã làm thì phải từ đây về sau kể hàng ức vạn kiếp, hối hận chẳng lại làm.
Thủ cùng ý đều tự khác, hộ cho tất cả mười phương hiểu biết đối pháp chẳng phạm thì đó là thủ, hiểu biết đó là vô vi thì đó là ý. Đó là sự khác nhau của thủ và ý vậy.
Trong thủ ý có bốn niềm vui, một là biết cầu vui ý, hai là biết pháp vui, ba là biết dừng vui, bốn là biết nên vui. Pháp là hành, được là đạo. Sáu việc thủ ý là có trong, có ngoài. Sổ, Tùy, chỉ đó là ngoài, quán, hoàn, tịnh đó là trong là tùy theo đạo vậy.
Vì sao vậy?
Vì niệm tức, tương tùy, chỉ quán, hoàn tịnh là muốn tu tập ý gần đạo. Lìa khỏi sáu việc này thì liền theo thế gian. Sổ tức đếm hơi thở là ngăn chận ý, tương tùy là thu gom ý, chỉ là định ý, quán là lìa ý, hoàn là một ý, tịnh là giữ ý. Do con người chẳng thể chế ngự ý nên hành sáu việc này vậy.
Vì sao vậy?
Vì sổ tức! Do loạn ý vậy.
Vì sao vậy?
Vì chẳng được! Do chẳng biết.
Vì sao vậy?
Vì chẳng được thiền! Do chẳng bỏ tập để tận chứng hành đạo vậy! Sổ tức là đất, tương tùy là cây, chỉ là cái ách chỗ mắc vào cổ cho trâu kéo cày, quán là hạt giống, hoàn là mưa, tịnh là hành động. Sáu việc như vậy mới tùy theo đạo được.
Sổ tức cắt đứt bên ngoài, tương tùy cắt đứt bên trong, chỉ là dừng tội, hành quán khước từ ý, chẳng thọ thế gian là hoàn, nghĩ đến cắt đứt đoạn là tịnh vậy.
Việc nhiều phải sổ tức, việc ít phải tương tùy, trong nhà ý hết phải hành chỉ, sợ thế gian phải quán, chẳng muốn thế gian là hoàn, niệm đoạn là tịnh vậy.
Vì sao vậy?
Vì sổ tức! Chẳng muốn theo năm ấm.
Vì sao vậy?
Vì tương tùy! Muốn biết năm ấm.
Vì sao vậy?
Vì chỉ! Muốn quan sát năm ấm.
Vì sao vậy?
Vì quán ấm! Muốn biết gốc của thân.
Vì sao vậy?
Vì biết gốc của thân! Muốn bỏ khổ.
Vì sao vậy?
Vì hoàn! Chán sinh tử.
Vì sao vậy?
Vì tịnh. Phân biệt năm ấm chẳng thọ, liền tùy theo thông tuệ mà tám thứ đạo được phân biệt là được sở nguyện vậy. Khí hành tức hơi thở là tùy theo đếm sổ, khi tương tùy là tùy theo niệm, khi chỉ là tùy theo định, khi quán là tùy theo tịnh, khi hoàn là tùy theo ý, khi tịnh là tùy theo đạo, cũng là tùy theo hành động vậy.
Sổ tức là bốn ý chỉ, tương tùy là bốn ý đoạn, chỉ là niệm bốn thần túc, quán là năm căn và năm lực, hoàn là bảy giác ý, tịnh là tám hạnh vậy. Được tức thì chẳng tương tùy, chẳng là thủ ý. Được tương tùy thì chẳng chỉ, chẳng là thủ ý.
Được chỉ thì chẳng quán, chẳng là thủ ý. Được quán thì chẳng hoàn, chẳng là thủ ý. Được hoàn thì chẳng tịnh, chẳng là thủ ý.
Được tịnh lại tịnh mới là thủ ý vậy. Đã niệm tức thì ác chẳng sinh. Lại thêm sổ đếm thì tức là chung ngăn chận ý chẳng theo lục suy. Hành tương tùy là muốn lìa hạnh lục suy.
Chỉ là muốn khước trừ hạnh lục suy. Quán là muốn đoạn trừ hạnh lục suy. Hoàn là muốn chẳng thọ hạnh lục suy. Tịnh là muốn diệt lục suy mà đã diệt hết thì liền theo đạo vậy. Sổ tức là muốn ngăn chận ý. Hơi thở tức có dài có ngắn nên phải lại ngăn chận ý dài ý ngắn.
Vì sao vậy?
Vì thủ ý, muốn dừng ác. Ác cũng có thể giữ, cũng chẳng thể giữ.
Vì sao vậy?
Vì ác đã hết thì chẳng phải lại giữ vậy. Sổ tức có ba việc, một là phải ngồi mà thực hành, hai là thấy sắc phải nghĩ chẳng phải thường và bất tịnh, ba là phải hiểu ý niệm sân nhuế, ngu si, tật đố là của quá khứ. Sổ tức loạn thì phải biết chỗ khởi của nhân duyên, phải biết chính là nội ý.
Hơi thở thứ nhất loạn thì chính là lỗi của ngoại ý. Vì hơi thở từ bên ngoài vào. Hơi thở thứ hai loạn thì chính là lỗi của nội ý vì hơi thở từ trong ra. Hơi thở ba, năm, bảy, chín… thuộc về ngoại ý. Hơi thở bốn, sáu, tám, mười… thuộc về nội ý.
Tật đố, sân nhuế, ngu si là ba ý ở bên trong. Sát, đạo, dâm, lưỡng thiệc, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ là bảy ý và các việc còn lại thuộc về bên ngoài vậy. Được hơi thở là ngoài, chẳng được hơi thở là trong. Hơi thở từ ý sinh ra, ý niệm, hơi thở hợp làm một lần đếm.
Hơi thở đếm hết thì đếm là một cũng chẳng phải là một vì ý ở ngoài hơi thở chưa hết vậy. Ví như đếm tiền, ý ở số năm đếm là một.
Sổ tức đếm hơi thở sở dĩ trước đếm hơi thở vào hít vào là vì bên ngoài có bảy ác, bên trong có ba ác. Do ít chẳng thể thắng nhiều nên trước đếm hơi thở vào. Sổ tức chẳng được thì mất ý căn bản ấy.
Ý căn bản gọi là chẳng phải thường, khổ, không, chẳng phải ngã. Mất ý này thì rơi vào điên đảo cũng là mất thầy. Thầy là khi bắt đầu ngồi, hơi thở hít vào thứ nhất mà được thân an thì liền theo thứ lớp tiến hành.
Vì mất ý căn bản ấy nên chẳng được hơi thở vậy. Khi sổ tức, ý thường phải nghĩ chẳng phải thường, khổ, không, chẳng phải thân, cho là hơi thở ra cũng diệt, hít vào cũng diệt. Biết được thế rồi là được đạo thì mau chóng phải giữ gìn ý chẳng phải thường sợ. Được ý này tức là được hơi thở tức vậy.
Hơi thở vào, hơi thở ra sở dĩ khác là vì hơi thở ra là sinh tử ấm, hơi thở vào là tư tưởng ấm. Có lúc hơi thở ra là thống dương ấm, hơi thở vào là thức ấm. Do đó nên là khác. Đạo Nhân phải phân biệt ý này. Hơi thở vào là chẳng thọ tội, hơi thở ra là trừ tội, thủ ý là lìa khỏi tội.
Hơi thở vào là thọ nhân duyên, hơi thở ra là đến với nhân duyên, thủ ý là chẳng lìa khỏi nhân duyên vậy. Sổ tức chẳng được có ba nhân duyên, một là tội đến, hai là hành chẳng đắp đổi nhau, ba là chẳng tinh tấn.
Hơi thở vào ngắn, hơi thở ra dài, không chỗ theo ý niệm là ý đạo. Có cái để nghĩ là tội. Tội cốt ở ngoài chẳng ở trong vậy. Khi sổ tức, có lìa khỏi ý là hơi thở nhanh dài, được thở là hơi thở nhanh ngắn.
Chẳng an mà thở là dài, an định mà thở là ngắn. Nghĩ đến muôn vật là thở dài, không gì để nghĩ là thở ngắn. Chưa đến mười hơi thở mà hoại đi rồi đếm lại là thở dài, được mười hơi thở là thở ngắn. Được hơi thở là ngắn.
Vì sao vậy?
Vì dừng chẳng đếm nữa. Được hơi thở cũng là dài.
Vì sao vậy?
Vì hơi thở chẳng ngưng nên là dài. Thở nhanh dồn dập dài tự biết, thở nhanh ngắn tự biết thì gọi ý sở tại là tự biết dài ngắn. Ý hiểu biết dài ngắn là tự biết. Ý chẳng hiểu biết dài ngắn là chẳng tự biết vậy. Đạo Nhân hành an bát thủ ý là muốn chỉ ý dừng ý tưởng.
Phải có nhân duyên gì mới được chỉ ý?
Phải nghe nói về an bát thủ ý! Những gì là an?
Những gì là Bát?
An là gọi hơi thở vào, bát gọi là hơi thở ra. Niệm tức chẳng lìa khỏi thì đó gọi là an bát. Thủ ý là muốn được chỉ ý. Đối với người tu hành là người mới học thì có bốn thứ hạnh an bát thủ ý để diệt trừ hai ác, mười sáu thắng, tức thời tự biết đến hạnh an bát thủ ý, khiến cho họ được chỉ ý.
Những gì là bốn thứ?
Một là đếm sổ, hai là tương tùy, ba là dừng chỉ, bốn là quán.
Những gì là hai ác?
Là không quá mười hơi thở, không giảm mười số.
Những gì mười sáu thắng?
Tức thời tự biết thở nhanh dài, tức tự biết thở nhanh ngắn, tức tự biết thở nhanh động thân, tức tự biết thở nhanh yếu, tức tự biết thở nhanh khoái, tức tự biết thở nhanh chẳng khoái, tức tự biết thở nhanh dừng, tức tự biết thở nhanh chẳng dừng, tức tự biết thở nhanh lòng hoan lạc.
Tức tự biết thở nhanh lòng chẳng hoan lạc, tức tự biết nội tâm nghĩ vạn vật đã qua đi chẳng thể lại được hơi thở nhanh tự biết, bên trong không có cái gì lại nghĩ hơi thở nhanh tự biết.
Ném bỏ việc suy nghĩ hơi thở nhanh tự biết, chẳng ném bỏ sự suy nghĩ hơi thở nhanh tự biết, buông bỏ thân mạng hơi thở nhanh tự biết, chẳng buông bỏ thân mạng hơi thở nhanh tự biết. Đó là mười sáu thứ tức thời tự biết.
Hỏi, những gì là không quá mười số?
Không giảm mười số?
Báo hơi thở đã hết mà chưa đếm thì đó là quá. Hơi thở chưa hết mà đếm thì đó là giảm. Mất đếm cũng xấu, chẳng đếm kịp cũng xấu. Đó là thứ ác xấu.
Đến hơi thở thứ hai mà loạn là hơi thở ngắn. Đến hơi thở thứ chín mà loạn là hơi thở dài. Được mười hơi thở là hơi thở sảng khoái. Tương tùy là nhỏ.
Ý tại hơi thở dài liền chuyển ý: Vì sao ta nghĩ dài?
Ý tại hơi thở ngắn thì tức thời hiểu chẳng được khiến cho ý dừng. Dừng là chấp trước. Buông bỏ thân mạng thì gọi là hành tức thở.
Được ý đạo liền buông bỏ thân mạng, chưa được ý đạo thường yêu thích thân nên chẳng buông bỏ thân mạng. Hơi thở vi tế là đạo, hơi thở dài là sinh tử. Hơi thở ngắn động là sinh tử. Dài hơi thở đối với đạo là ngắn.
Vì sao vậy?
Vì chẳng được ý đạo, không tri kiến nên là ngắn vậy. Sổ tức là đơn, tương tùy là kép, chỉ là một ý, quán là biết ý, hoàn là làm đạo, tịnh là vào đạo.
Khi đếm là niệm đến hơi thở thứ mười là giữ lại trì. Đó là thiền bên ngoài. Nghĩ thân bất tịnh, tùy theo trống rỗng thì đó là thiền bên trong. Khi thiền mà ác pháp đến chẳng thọ thì đó gọi là bỏ khí.
Ngậm miệng đếm hơi thở, theo luồng hơi ra vào, biết hơi phát ra ở đâu, diệt đi ở chỗ nào?
Ý có điều nghĩ ngơi chẳng được sổ tức. Ý có chậm nhanh, lớn nhỏ cũng chẳng được sổ tức. Tai nghe thanh âm hỗn loạn cũng chẳng được sổ tức vậy.
Sổ tức mà ý ở tại số hơi thở là chẳng khéo. Hành động mà ý ở tại ý thì là dừng, sổ tức mà ý chỉ ở tại hơi thở thì đó là chẳng khéo công. Phải biết rằng, ý từ đâu khởi thì hơi theo đó diệt.
Đó mới ứng hợp với nhân duyên đếm hết thì liền được định ý. Thủ ý là nghĩ hơi thở ra, vào. Đã nghĩ đến hơi thở thì chẳng sinh ra ác nên gọi là thủ ý.
Hơi thở thấy nhân duyên sinh, không nhân duyên diệt mà nhân duyên đoạn thì hơi thở dừng vậy. Sổ tức là chí thành. Hơi thở chẳng loạn là nhẫn nhục. Hơi sổ tức vi tế, lại chẳng biết ra hay vào thì như vậy phải giữ một niệm là chỉ vậy.
Hơi thở ở tại thân cũng ở bên ngoài. Được nhân duyên thì hơi thở sinh ra. Tội chưa hết nên có hơi thở. Đoạn dứt nhân duyên thì hơi thở chẳng sinh ra nữa. Sổ tức lấy làm thiền thứ hai.
Vì sao vậy?
Vì do chẳng đợi niệm nên làm theo thiền thứ hai. Sổ tức là chẳng thủ ý, niệm tức nghĩ về hơi thở mới là thủ ý. Hơi thở từ ngoài vào mà hơi thở chưa hết thì hơi thở ở tại nhập, ý ở tại tận, thức ở tại số vậy. Mười hơi thở có mười ý là mười bó buộc.
Tương tùy có hai ý là hai bó buộc. Chỉ là một ý là một bó buộc, chẳng được hơi thở. Sổ là ác ý chẳng thể bó buộc. Ác ý dừng thì mới được sổ tính. Đó là điều hòa có thể ý trói buộc. Đã được hơi thở, bỏ hơi thở.
Đã được tương tùy, bỏ tương tùy, đã được chỉ, bỏ chỉ, đã được quán, bỏ quán không lại hoàn. Không lại hoàn là không lại sổ. Hơi thở cũng sai khiến ý, ý cũng sai khiến hơi thở. Hơi thở có sở niệm là hơi thở sai khiến ý, không sở niệm là ý sai khiến hơi thở vậy.
Hơi thở có bốn việc, một là gió, hai là hơi khí, ba là tức, bốn là suyển. Có tiếng là gió, không tiếng là khí, ra vào là tức, hơi ra vào bất tận suyển vậy. Sổ tức cắt đứt bên ngoài, tương tùy cắt đứt bên trong.
Đếm từ ngoài vào là cắt đứt bên ngoài, cũng muốn lìa khỏi nhân duyên bên ngoài. Ngoài là thân ly, nội là ý ly. Thân ly, ý ly thì đó là tương tùy. Hơi thở ra vào thì đó là hai việc vậy. Sổ tức là muốn cắt đứt nhân duyên trong ngoài.
Những gì là trong ngoài?
Gọi nhãn, nhĩ, tỷ, khẩu, thân, ý là bên trong. Sắc, thanh, hương, vị, tế cốt niệm là bên ngoài. Hành tức hơi thở là khiến cho ý hướng về không, chỉ muốn dừng những ý còn lại.
Lấy gì là hướng về không?
Trong hơi thở không cái gì vậy! Sổ tức ý có chạy không?
Tức thời biết là tội nặng ý nhẹ, tội dẫn ý đi nhanh chóng nên chẳng biết vậy. Hành đạo rồi được hơi thở, tự chán hơi thở thì ý muốn chuyển chẳng lại muốn đếm. Như vậy là được hơi thở.
Tương tùy, chỉ, quán cũng vậy. Biết hơi thở ra vào diệt mà diệt là được tướng của hơi thở và biết sinh tử. Chẳng lại do vì được tướng sinh tử rồi thì được Tứ Thiền mà chỉ niệm không là trồng cây đạo.
Hành tức rồi được định, chẳng lại hay biết hơi ra vào thì liền có thể quán. Một là phải quan sát năm mươi lăm việc. Hai là phải quan sát mười hai nhân duyên trong thân.
Hỏi: Hơi thở ra vào chắc có chỗ không?
Đáp: Khi hơi thở vào chính là chỗ ấy, khi hơi thở ra chính là chỗ ấy! Khi sổ tức, thân ngồi, thống dương, tư tưởng, sinh tử, thức dừng lại chẳng hành động. Đó là ngồi. Niệm tức được đạo lại tính toán thì do hơi thở không sở tri.
Hỏi: Niệm tức được đạo vì sao là không sở tri?
Đáp: Ý biết hơi thở, hơi thở không biết ý.
Đó là không sở tri! Con người chẳng thể tính toán được ý liền điều khiển sổ tức là muốn khiến cho ý định. Tuy sổ tức chỉ chẳng sinh ra ác nhưng không có thông tuệ.
Phải hành động ra sao thì được thông tuệ?
Phải đếm hơi thở từ một đến mười, phân biệt định loạn, hiểu biết đối trị để làm thuốc. Đã được định ý thì liền theo thông tuệ. Nếu được tính toán là rơi vào quán vậy.
Hỏi: Những gì là đếm tính?
Đáp: Đếm thì gọi sự việc. Ví như người có việc lại còn cầu tìm. Đó là tính tội còn Đạo Nhân thì tính phước.
Vì sao vậy?
Vì chính là số mười. Một ý khởi lên tính là một, hai ý khởi lên tính là hai… cuối cùng tính đến mười mà đến mười là hết nên nói rằng số mười là phước. Lại người có tội thì do chẳng thể hủy hoại hơi thở nên là tội, cũng gọi là sinh tử của ý chẳng diệt.
Rơi vào thế gian rồi chẳng cắt đứt việc thế gian là tội vậy. Sáu tình là sáu việc cùng thống dương, tư tưởng, sinh tử, thức hợp làm mười việc để ứng với bên trong mười hơi thở.
Sát sinh, trộm cắp, dâm dật, lưỡng thiệc, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ, tật đố, sân nhuế, ngu si ứng với mười hơi thở bên ngoài. Đó gọi là dừng chẳng hành động vậy.
Hỏi: Những gì là mười sáu việc?
Đáp: Mười sáu việc là gọi việc đếm đến mười sáu thì gọi là sổ tức, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Đó là mười sáu việc, là hành động chẳng rời khỏi, là theo đạo vậy.
Hỏi: Sổ tức nghĩ đến gió là theo sắc, thì vì sao ứng với đạo?
Đáp: Hành ý tại đạo, đếm chẳng nghĩ đến sắc, hơi hết liền diệt. Rơi vào chẳng phải thường mà biết chẳng phải thường là đạo vậy. Đạo Nhân muốn được đạo thì cần phải biết ngồi hành hai việc, một là ngồi, hai là hành.
Hỏi: Ngồi cùng hành là đồng hay chẳng đồng?
Đáp: Có lúc đồng có lúc chẳng đồng! Sổ tức, tương tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh, sáu việc này có khi là ngồi, có khi là hành.
Vì sao vậy?
Vì sổ tức định ý đó là ngồi, ý theo pháp đó là hành. Đã khởi lên ý chẳng rời khỏi là hành, cũng là ngồi vậy.
Pháp Tọa Thiền thì một chẳng tính, hai hai chẳng tính. Mỗi một lần tính gộp hai gọi là một số. Hơi thở chưa hết liền nói rằng hai thì đó là một tính ra hai. Như vậy là quá tinh tấn. Hai tính một là gọi hơi thở đã vào hai liền nói là một. Đó là hai tính một. Như vậy là chẳng kịp tinh tấn.
Từ ba đến bốn, năm đến sáu, bảy đến tám, chín đến mười đều tự phân biệt sắp xếp. Phải phân biệt sự tùy thuộc, ở một tính một, ở hai tính hai. Đó pháp hành động phương tiện theo tinh tấn vậy.
Có ba cách ngồi tùy theo đạo, một là ngồi sổ tức, hai là ngồi tụng Kinh, ba là ngồi hoan hỷ nghe Kinh. Đó là ba vậy. Ngồi có ba thứ, một là ngồi vị hợp, hai là ngồi tịnh, ba là ngồi không có kết.
Cái gì là ngồi vị hợp?
Đó là ý đặt vào hạnh chẳng rời gọi là ngồi vị hợp.
Sao gọi là ngồi tịnh?
Gọi ngồi chẳng niệm là ngồi tịnh.
Sao gọi là ngồi không có kết?
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Trí ấn - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tam Khổ
Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Mười Tám - Phẩm Dọc đường Thấy Người Bệnh
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Bốn - Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát - Phần Mười Hai
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh điều Tương Sĩ
Phật Thuyết Kinh Khởi Thế - Phẩm Mười Hai - Phẩm Tối Thắng - Tập Ba