Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bảy - Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm - Phần Tám
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ BẢY
PHÁP HỘI MẶC GIÁP TRANG NGHIÊM
PHẦN TÁM
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Bồ Tát người vô úy
Lúc mặc giáp trụ ấy
Vì lợi ích chúng sanh
Mà mặc vô biên giáp
Chúng sanh nếu nghèo thiếu
Khổ sở không pháp tài
Không giới không đa văn
Không huệ không giải thoát
Mặc giáp vô biên ấy
Khiến pháp được đầy đủ
Vì pháp đươc đầy đủ
Tất cả được an lạc
Vì bỏ những nghèo khổ
Diễn thuyết pháp vô thượng
Người nghe đều sạch trần
Được ở đạo an lạc
Giới tụ được sung túc
Đa văn như biển cả
Bèn được huệ tối thượng
Do đây dứt được trói
Giải thoát khắp chiếu sáng
Giải thoát chánh tri kiến
Nếu người hiện chứng được
Tất cả được an lạc
Lửa lớn tham sân si
Thường đốt cháy hừng khắp
Do đó chúng sanh khổ
Tôi làm tắt lửa ấy
Trao thuốc cho chúng sanh
Trừ hết tất cả bệnh
Nếu bệnh đã tiêu trừ
Đến được cõi Niết Bàn
Bỏ hẳn tất cả dư
Thẳng đến chỗ an lạc
Từ trong an lạc ấy
Không có ai lui về
Tất cả vui hữu vi
Ở đó không còn cầu
Đại an lạc vô thượng
Ở đó đều sẽ chứng
Dùng pháp không hí luận
Thành thục các chúng sanh
Tất cả đều sẽ được
Đại an lạc cứu cánh
Người hướng đến như vậy
Thẳng qua không trở lại
Ra khỏi nơi hướng đến
Thường được thắng an lạc
Ở trong đại an lạc
Ưa muốn hay chẳng muốn
Hướng đến hay chẳng hướng
Tất cả đều sẽ dứt
Mặc giáp như vậy rồi
Sẽ ngồi nơi thừa ấy
Vì thương các chúng sanh
Đều nhiếp thủ tất cả
Quá khứ Phật Thế Tôn
Thừa ấy đã xuất ly
Vị lai Phật Thế Tôn
Thừa ấy sẽ xuất ly
Hiện tại Phật Thế Tôn
Thừa ấy nay xuất ly
Thế nên đại thừa ấy
Không Phật nào chẳng ngồi
Tất cả đấng tối thắng
Dựa nương lớn của đời
Do thừa ấy xuất ly
Chẳng sanh cảm tưởng thừa
Chẳng phải thừa làm thừa
Chẳng phải đạo làm đạo
Chẳng phải xuất làm xuất
Xuất ly nên vô thượng
Lúc thừa ấy xuất ly
Chưa có chút xuất ly
Vì rỗng không, vô tướng
Vì vô nguyện, vô tác
Chẳng thừa chẳng xuất ly
Mới gọi là đại thừa
Tất cả đều bình đẳng
Do đây mà hướng đến
Thừa ấy không hòa hiệp
Cũng không chẳng hòa hiệp
Hướng đến đạo vô thượng
Hiện chứng đại an lạc
Thừa ấy không tương ưng
Cũng không chẳng tương ưng
Không xứ không chỗ ở
Do đây mà hướng đến
Đạo ấy không có lai
Đạo ấy cũng không khứ
Được chánh đạo ấy rồi
Tịch tịnh mà hướng đến
Ta nói nơi đạo ấy
Thừa ấy giáp trụ ấy
Nơi pháp không chỗ ở
Tịch tịnh tối vô thượng
Tất cả pháp phàm phu
Tất cả pháp Thanh Văn
Tất cả pháp Duyên Giác
Tất cả bất khả đắc
Nơi tất cả pháp Phật
Pháp ly cấu vô thượng
Chẳng xa cũng chẳng gần
Tất cả bất khả đắc
Pháp rỗng không, vô tướng
Pháp vô nguyện, vô tác
Chẳng xa cũng chẳng gần
Tất cả bất khả đắc
Các pháp yểm, ly, diệt
Pháp Niết Bàn tịch tịnh
Chẳng xa cũng chẳng gần
Tất cả bất khả đắc
Thừa ấy giáp trụ ấy
Đạo ấy vô sở thủ
vô thượng bất khả động
Rốt ráo bất khả đắc
Tự tánh tất cả pháp
Tướng chân thiệt hi hữu
Chẳng đem thi thiết được
Vì pháp tánh không vậy
Thừa ấy giáp trụ ấy
Đạo ấy không hiển bày
Như tự tánh các pháp
Tánh ấy cũng như vậy
Trong tất cả các pháp
Tướng tánh bất khả đắc
Nơi pháp không tánh tướng
Ta lược khai thị cho
Trong tất cả các pháp
Tất cả tự tánh tướng
Nơi ta nói như vậy
Rốt ráo vô sở hữu
Thừa ấy và đạo ấy
Giáp ấy tự tánh tướng
Ở đó cầu ngôn thuyết
Rốt ráo cũng chẳng có
Vì ngôn thuyết chẳng có
Đó là tướng hi hữu
Ở trong ngôn thuyết ấy
Lời lẽ cũng chẳng có
Các pháp chẳng lường được
Vô thắng vô biên lượng
Tất cả chẳng thể lường
Thế nên pháp vô thượng
Thừa ấy giáp trụ ấy
Đạo ấy cũng như vậy
Ở trong vô tướng ấy
Phải tùy nhập như vậy
Vì khiến các chúng sanh
Biết khắp siêng tu tập
Chóng được ánh sáng pháp
Nên ta nói như vậy
Các pháp không ngôn ngữ
Tất cả chẳng nói được
Ở trong các pháp ấy
Tất cả phải tùy nhập
Vì pháp không ngôn thuyết
Nơi ấy phải tùy hành
Hành không có chút hành
Tất cả pháp không hành
Không cầu mà thích cầu
Không hành mà tùy hành
Người tùy hành như vậy
Chẳng quan sát nơi nghĩa
Nay ông nơi thiệt nghĩa
Tất cả phải tùy hành
Âm thanh và ngôn ngữ
Nơi ấy chớ tùy chuyển
Trong âm thanh ngôn ngữ
Nếu được chẳng tùy chuyển
Mới tùy hành nơi nghĩa
Đây là người cầu nghĩa
Những gì gọi là nghĩa
Phải biết thuyết bí mật
Bởi tin vô phân biệt
Nghĩa ấy mới tùy hành
Biết rõ nghĩa như vậy
Được nơi thuyết bí mật
Không trước không chỗ chấp
Chẳng hành chẳng tùy chuyển
Nếu là có tùy hành
Thì là tùy chấp trước
Nếu là không tùy hành
Tất cả chẳng tùy chuyển
Do đây chánh ức niệm
Rời xa nơi tùy chuyền
Bồ Đề và sanh tử
Chẳng tương ưng cả hai
Nơi ấy cũng vô niệm
Vô niệm là chánh niệm
Vì nơi niệm thanh tịnh
Gọi là người thanh tịnh
Nếu tu hành khác đây
Rời xa pháp vô thượng
Ông phải ở nghĩa ấy
Như lời mà tu tập
Nếu là tùy ngôn ngữ
Thì là tùy âm thanh
Chẳng vượt quá nơi ấy
Đồng với pháp thế gian
Âm thanh và văn tự
Chẳng nên tùy nó chuyển
Phải biết nghĩa chân thiệt
Không hành để tùy hành
Thiệt nghĩa không âm thanh
Cũng không có văn tự
Vì vượt quá ngôn ngữ
Mới gọi là thiệt nghĩa
Nghĩa ấy nên tùy hành
Tùy hành vô sở hữu
Vì hành đã dứt hết
Mới gọi là thiệt nghĩa
Ở trong chân thiệt nghĩa
Chẳng hành dùng làm hành
Đây thời chẳng thối chuyển
Chẳng rời bỏ giáp trụ
Tùy thuận đại giáp trụ
Đại thừa và đại đạo
Hướng đến chỗ an lạc
Lợi ích các chúng sinh
Những pháp an ổn ấy
Nay ta nói cho ông
Ông phải tùy nghĩa hành
Ông dứt được nghi hoặc
Nếu người ngồi thừa ấy
Ngồi rồi sẽ hướng đến
Chóng đến đại bồ đề
Hiện chứng vô thượng giác
Nơi tối thượng thừa ấy
Chẳng thừa là chóng thừa
Nơi đạo nơi giáp trụ
Nghĩa ấy cũng như vậy
Nơi pháp vô thường ấy
Người siêng năng tu tập
Các chúng sanh như vậy
Được Chư Phật hộ niệm
Thời kỳ bố úy sau
Ông phải khai pháp ấy
Rộng vì các chúng sanh
Mà làm họ lợi ích
Thời kỳ bố úy sau
Nếu khai được pháp ấy
Phát sanh phước vô thượng
Số ấy chẳng lường được.
Đức Phật phán tiếp: Này Vô Biên Huệ! Giáp trụ của Đại Bồ Tát mặc gọi là đại thắng, cũng cọi là vô biên thắng, cũng gọi là đại trang nghiêm.
Thừa của các Ngài ngồi gọi là đại thừa, cũng gọi là vô biên quang, cũng gọi là diệu trang nghiêm.
Đạo của các Ngài hành gọi là vô lượng trang nghiêm tư lương, cũng gọi là vô luợng phương tiện tư lương. Do nơi đạo ấy mà Chư Đại Bồ Tát hướng đến vô thượng bồ đề.
Lại này Vô Biên Huệ! Thuở xưa quá vô lượng kiếp, lại gấp bội số kiếp ấy, có Đức Phật xuất thế hiệu là Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, vô thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, kiếp ấy tên là Điện Quang, Quốc Độ tên là Quang Minh.
Cõi nước ấy, mặt đất bằng phẳng không có những nhơ uế ngói sạn gai góc. Hoàng kim và bạch ngân làm cát đống bày hàng ngăn ranh rất đẹp mắt.
Trong Quốc Độ ấy, mỗi châu trong tứ châu thiên hạ rộng hai ức do tuần. Trong mỗi châu lại có bốn vạn tám ngàn thành lớn. Mỗi tòa thành ấy rộng mười do tuần, dài hai mươi do tuần, tường hào trang nghiêm tráng lệ rất cao. Trong mỗi thành có tám câu chi người ở, chia ra mười ngàn khu vườn bao vòng rất đẹp.
Trong Quốc Độ ấy lại có nhiều thứ cây hoa, cây trái, cây hương, cây y phục, cây thượng vị và cây kim cương xen lẫn nghiêm sức. Những ao hồ ven bờ ngay thẳng đầy nước bát công đức, đủ bốn màu hoa sen thường đua nở.
Đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai ấy thọ sáu mươi tám câu chi na do tha tuổi. Lại có sáu mươi câu chi na do tha Chúng Thanh Văn làm quyến thuộc.
Thuở ấy, nhân dân trong nước Quang Minh dung nhan xinh đẹp an ổn sung sướng, tham sân si nhẹ mỏng dễ giáo hóa. Dạy bảo chút ít họ liền biết rõ tánh tướng các pháp.
Này Vô Biên Huệ! Thuở ấy có Chuyển Luân Thánh Vương tên là Nhất Thiết Nghĩa thành đầy đủ bảy báu, bốn phương thần phục. Trong châu Diêm Phù Đề ấy có một tòa thành lớn rộng bốn mươi do tuần, nhân dân đông đúc an ổn giàu vui. Nội thành cung điện rộng năm do tuần dùng bảy báu để trang sức, cây Đa La đẹp rũ những linh lạc, trùm với lưới chân kim.
Chánh điện của nhà Vua thuần bằng lưu ly biếc rộng một do tuần, bốn mặt có ngàn trụ. Trên cung điện ấy lại có ngàn từng lầu cao lớn nghiêm đẹp, trang sức với những châu báu.
Trước điện có ao nước thơm trong vắt, bên cạnh lại có mười sáu ao nhỏ thơm sáng làm bằng bảy báu. Trong mỗi mỗi ao nước chảy xao động vang ra âm thanh vi diệu như trỗi nhạc.
Mỗi mỗi ao nhỏ có mười sáu bậc thềm, ao lớn có ba mươi hai bậc thềm. Mỗi mỗi bậc thềm thuần bằng chân kim. Cây báu bảy hàng, lưới báu giăng che, mùi thơm thượng diệu phất khắp cả thành, nên gọi ao nước ấy là ao hương quang.
Này Vô Biên Huệ! Luân Vương ấy có bốn phu nhân: Bà thứ nhất tên Vô Biên Âm, bà thứ hai tên là Hiền Thiện Âm, bà thứ ba tên là Chúng Diệu Âm, bà thứ tư tên là Nga Vương Âm.
Mỗi phu nhân đều riêng có hai con trai: Người thứ nhất tên Bất Không Thắng, người thứ hai tên Hiền Thắng, người thứ ba tên Long Thắng, người thứ tư tên Thắng Âm, người thứ năm tên Diệu Âm, người thứ sáu tên Phạm Âm, người thứ bảy tên Thắng Vân và người thứ tám tên Vân Âm.
Thể nữ có sáu ức người, con trai họ có mười ngàn người.
Thuở ấy, Luân Vương Nhất Thiết Nghĩa Thành ở trong nội cung đang vui chơi với quyến thuộc, bỗng thấy trên hư không có một Đức Như Lai nhan sắc vi diệu xuất hiện bảo Luân Vương rằng:
Đại Vương nên mặc giáp trụ vô thượng, ngồi thừa vô thượng mà hướng đến vô thượng bồ đề, trao thuốc trí huệ cho các chúng sanh. Chớ nên say đắm ngũ dục Nhân Thiên.
Đại giáp trụ ấy có thể nhiếp thọ vô thượng an lạc. Vô thượng thừa ấy có thể đưa vào vườn hoa vô thượng. Đã vào trong ấy thì chẳng còn lui về.
Tất cả những thứ dục lạc của Trời của người đều là những pháp vô thường biến đổi hư hoại, thế của nó chẳng còn lâu giây lát thì biến đổi tiêu diệt.
Luân Vương Nhất Thiết Nghĩa Thành nghe lời trên đây rồi, bạch cùng Đức Như Lai hiện trên hư không rằng: Ai là người chỉ dạy được đại giáp trụ ấy, như giáp trụ ấy mà mặc vào?
Ai là người chỉ dạy được đại thừa ấy, như đại thừa ấy mà ngồi ngự đó?
Ai là người chỉ dạy được đại đạo ấy, như đại đạo ấy mà hướng đến vậy?
Đức Như Lai ấy bảo rằng: Này Đại Vương! Có Đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai đang ngự nơi Đạo Tràng. Đại Vương nên đến chỗ ấy.
Đức Thế Tôn ấy sẽ vì Đại Vương mà chỉ dạy cho pháp mặc đại giáp trụ, ngồi nơi đại thừa, đến nơi đại đạo. Dạy bảo xong, Đức Như Lai ấy bỗng nhiên chẳng còn hiện.
Này Vô Biên Huệ! Thấy việc ấy rồi, Luân Vương Nhất Thiết Nghĩa Thành kính sợ sửng sốt phát tâm hi hữu chẳng còn thích các thứ dục lạc của Trời của người. Nhàm bỏ tất cả các hành hữu vi mà cầu đại giáp trụ đại thừa đại đạo.
Luân Vương cùng tám Vương Tử, bốn phu nhân cùng các Thế Tử, các thể nữ đồng đi đến chỗ đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai.
Khi đã đến trước Đức Phật, Luân Vương với quyến thuộc cung kính cúi lạy chân Đức Phật, đem một tăm hoa đẹp thất bảo rải trên Đức Phật, và đem vô lượng chi bà la dưng lên Đức Phật và chúng Thanh Văn. Lại suốt mười ngàn năm dâng cúng tất cả đồ cần dùng.
Sau đó Luân Vương rời bỏ ngôi Vua, cùng các quyến thuộc xuất gia trong chánh pháp của đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai.
Này Vô Biên Huệ! Lúc ấy Đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai biết lòng chí thành ưa thích của Tỳ Kheo Nhất Thiết Nghĩa Thành và các quyến thuộc của ông ấy, liền vì họ mà khai thị giáp trụ trang nghiêm và đại thừa trang nghiêm.
Tỳ kheo ấy được nghe pháp rồi phát tâm kiên cố vì pháp thậm thâm mà trọn đời ngồi ngay ngắn để tư duy siêng năng chẳng thối thất, thường gần gũi Đức Như Lai, với tất cả sự dục lạc thế gian được không động niệm.
Này Vô Biên Huệ! Thuở ấy đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai hỏi Tỳ Kheo Nhất Thiết Nghĩa Thàng rằng: Này Thiện Nam Tử! Nay ông mặc đại giáp trụ, ngồi ở đại thừa hướng đế đạo ư!
Do nơi đạo ấy có thể thành tựu Nhất thiết chủng trí, vô đẳng đẳng trí. Ông phải tinh tiến siêng năng đúng theo lý mà tu tập.
Tỳ Kheo ấy bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi chẳng thấy có pháp gì gọi là giáp trụ, cũng chẳng thấy có ai mặc giáp trụ, cũng chẳng thấy từ đâu mặc giáp trụ, cũng chẳng thấy có chỗ mặc giáp trụ.
Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi chẳng thấy có pháp gì gọi là thừa, cũng chẳng thấy có ai ngồi đại thừa, cũng chẳng thấy từ đâu có đại thừa, cũng chẳng thấy có chỗ ngồi đại thừa.
Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi chẳng thấy có pháp gì tên là đạo, cũng chẳng thấy có người do đạo này mà đã hướng đến hay nay hướng đến, cũng chẳng thấy từ đâu có đạo, cũng chẳng thấy có xứ sở của đạo.
Bạch Đức Thế Tôn! Tôi đối với vô thượng bồ đề, hoặc xa hoặc gần, hoặc quá khứ vị lai hiện tại đều không có được không có thấy. Hiện nay lúc tôi quan sát như vậy, thiệt không có chút pháp nào để thân cận và chứng nhập.
Bạch Đức Thế Tôn! Nếu tôi không chứng, có nên hỏi tôi rằng: Ông mặc giáp trụ, ngồi đại thừa và hướng đến đạo ư!
Đức Thế Tôn là đấng biết tất cả, là đấng thấy tất cả. Ngang bằng chỗ tôi theo pháp tu hành, chỉ có Đức Thế Tôn mới biết rõ được, mà chẳng phải là cảnh giới của hàng Thanh Văn và Duyên Giác.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Văn Thù Sư Lợi Vào Niết Bàn
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Tổng Thuyết Và Biệt Thuyết
Phật Thuyết Kinh Hiền Nhân - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bảo Vân - Phẩm Bảy - Phẩm Bảo Tích - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Sakuludayi - Phần Mười Bốn - Tám Thắng Xứ
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bảy - Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm - Phần Tám