Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bảy - Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm - Phần Tám

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ BẢY

PHÁP HỘI MẶC GIÁP TRANG NGHIÊM  

PHẦN TÁM  

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Bồ Tát người vô úy

Lúc mặc giáp trụ ấy

Vì lợi ích chúng sanh

Mà mặc vô biên giáp

Chúng sanh nếu nghèo thiếu

Khổ sở không pháp tài

Không giới không đa văn

Không huệ không giải thoát

Mặc giáp vô biên ấy

Khiến pháp được đầy đủ

Vì pháp đươc đầy đủ

Tất cả được an lạc

Vì bỏ những nghèo khổ

Diễn thuyết pháp vô thượng

Người nghe đều sạch trần

Được ở đạo an lạc

Giới tụ được sung túc

Đa văn như biển cả

Bèn được huệ tối thượng

Do đây dứt được trói

Giải thoát khắp chiếu sáng

Giải thoát chánh tri kiến

Nếu người hiện chứng được

Tất cả được an lạc

Lửa lớn tham sân si

Thường đốt cháy hừng khắp

Do đó chúng sanh khổ

Tôi làm tắt lửa ấy

Trao thuốc cho chúng sanh

Trừ hết tất cả bệnh

Nếu bệnh đã tiêu trừ

Đến được cõi Niết Bàn

Bỏ hẳn tất cả dư

Thẳng đến chỗ an lạc

Từ trong an lạc ấy

Không có ai lui về

Tất cả vui hữu vi

Ở đó không còn cầu

Đại an lạc vô thượng

Ở đó đều sẽ chứng

Dùng pháp không hí luận

Thành thục các chúng sanh

Tất cả đều sẽ được

Đại an lạc cứu cánh

Người hướng đến như vậy

Thẳng qua không trở lại

Ra khỏi nơi hướng đến

Thường được thắng an lạc

Ở trong đại an lạc

Ưa muốn hay chẳng muốn

Hướng đến hay chẳng hướng

Tất cả đều sẽ dứt

Mặc giáp như vậy rồi

Sẽ ngồi nơi thừa ấy

Vì thương các chúng sanh

Đều nhiếp thủ tất cả

Quá khứ Phật Thế Tôn

Thừa ấy đã xuất ly

Vị lai Phật Thế Tôn

Thừa ấy sẽ xuất ly

Hiện tại Phật Thế Tôn

Thừa ấy nay xuất ly

Thế nên đại thừa ấy

Không Phật nào chẳng ngồi

Tất cả đấng tối thắng

Dựa nương lớn của đời

Do thừa ấy xuất ly

Chẳng sanh cảm tưởng thừa

Chẳng phải thừa làm thừa

Chẳng phải đạo làm đạo

Chẳng phải xuất làm xuất

Xuất ly nên vô thượng

Lúc thừa ấy xuất ly

Chưa có chút xuất ly

Vì rỗng không, vô tướng

Vì vô nguyện, vô tác

Chẳng thừa chẳng xuất ly

Mới gọi là đại thừa

Tất cả đều bình đẳng

Do đây mà hướng đến

Thừa ấy không hòa hiệp

Cũng không chẳng hòa hiệp

Hướng đến đạo vô thượng

Hiện chứng đại an lạc

Thừa ấy không tương ưng

Cũng không chẳng tương ưng

Không xứ không chỗ ở

Do đây mà hướng đến

Đạo ấy không có lai

Đạo ấy cũng không khứ

Được chánh đạo ấy rồi

Tịch tịnh mà hướng đến

Ta nói nơi đạo ấy

Thừa ấy giáp trụ ấy

Nơi pháp không chỗ ở

Tịch tịnh tối vô thượng

Tất cả pháp phàm phu

Tất cả pháp Thanh Văn

Tất cả pháp Duyên Giác

Tất cả bất khả đắc

Nơi tất cả pháp Phật

Pháp ly cấu vô thượng

Chẳng xa cũng chẳng gần

Tất cả bất khả đắc

Pháp rỗng không, vô tướng

Pháp vô nguyện, vô tác

Chẳng xa cũng chẳng gần

Tất cả bất khả đắc

Các pháp yểm, ly, diệt

Pháp Niết Bàn tịch tịnh

Chẳng xa cũng chẳng gần

Tất cả bất khả đắc

Thừa ấy giáp trụ ấy

Đạo ấy vô sở thủ

vô thượng bất khả động

Rốt ráo bất khả đắc

Tự tánh tất cả pháp

Tướng chân thiệt hi hữu

Chẳng đem thi thiết được

Vì pháp tánh không vậy

Thừa ấy giáp trụ ấy

Đạo ấy không hiển bày

Như tự tánh các pháp

Tánh ấy cũng như vậy

Trong tất cả các pháp

Tướng tánh bất khả đắc

Nơi pháp không tánh tướng

Ta lược khai thị cho

Trong tất cả các pháp

Tất cả tự tánh tướng

Nơi ta nói như vậy

Rốt ráo vô sở hữu

Thừa ấy và đạo ấy

Giáp ấy tự tánh tướng

Ở đó cầu ngôn thuyết

Rốt ráo cũng chẳng có

Vì ngôn thuyết chẳng có

Đó là tướng hi hữu

Ở trong ngôn thuyết ấy

Lời lẽ cũng chẳng có

Các pháp chẳng lường được

Vô thắng vô biên lượng

Tất cả chẳng thể lường

Thế nên pháp vô thượng

Thừa ấy giáp trụ ấy

Đạo ấy cũng như vậy

Ở trong vô tướng ấy

Phải tùy nhập như vậy

Vì khiến các chúng sanh

Biết khắp siêng tu tập

Chóng được ánh sáng pháp

Nên ta nói như vậy

Các pháp không ngôn ngữ

Tất cả chẳng nói được

Ở trong các pháp ấy

Tất cả phải tùy nhập

Vì pháp không ngôn thuyết

Nơi ấy phải tùy hành

Hành không có chút hành

Tất cả pháp không hành

Không cầu mà thích cầu

Không hành mà tùy hành

Người tùy hành như vậy

Chẳng quan sát nơi nghĩa

Nay ông nơi thiệt nghĩa

Tất cả phải tùy hành

Âm thanh và ngôn ngữ

Nơi ấy chớ tùy chuyển

Trong âm thanh ngôn ngữ

Nếu được chẳng tùy chuyển

Mới tùy hành nơi nghĩa

Đây là người cầu nghĩa

Những gì gọi là nghĩa

Phải biết thuyết bí mật

Bởi tin vô phân biệt

Nghĩa ấy mới tùy hành

Biết rõ nghĩa như vậy

Được nơi thuyết bí mật

Không trước không chỗ chấp

Chẳng hành chẳng tùy chuyển

Nếu là có tùy hành

Thì là tùy chấp trước

Nếu là không tùy hành

Tất cả chẳng tùy chuyển

Do đây chánh ức niệm

Rời xa nơi tùy chuyền

Bồ Đề và sanh tử

Chẳng tương ưng cả hai

Nơi ấy cũng vô niệm

Vô niệm là chánh niệm

Vì nơi niệm thanh tịnh

Gọi là người thanh tịnh

Nếu tu hành khác đây

Rời xa pháp vô thượng

Ông phải ở nghĩa ấy

Như lời mà tu tập

Nếu là tùy ngôn ngữ

Thì là tùy âm thanh

Chẳng vượt quá nơi ấy

Đồng với pháp thế gian

Âm thanh và văn tự

Chẳng nên tùy nó chuyển

Phải biết nghĩa chân thiệt

Không hành để tùy hành

Thiệt nghĩa không âm thanh

Cũng không có văn tự

Vì vượt quá ngôn ngữ

Mới gọi là thiệt nghĩa

Nghĩa ấy nên tùy hành

Tùy hành vô sở hữu

Vì hành đã dứt hết

Mới gọi là thiệt nghĩa

Ở trong chân thiệt nghĩa

Chẳng hành dùng làm hành

Đây thời chẳng thối chuyển

Chẳng rời bỏ giáp trụ

Tùy thuận đại giáp trụ

Đại thừa và đại đạo

Hướng đến chỗ an lạc

Lợi ích các chúng sinh

Những pháp an ổn ấy

Nay ta nói cho ông

Ông phải tùy nghĩa hành

Ông dứt được nghi hoặc

Nếu người ngồi thừa ấy

Ngồi rồi sẽ hướng đến

Chóng đến đại bồ đề

Hiện chứng vô thượng giác

Nơi tối thượng thừa ấy

Chẳng thừa là chóng thừa

Nơi đạo nơi giáp trụ

Nghĩa ấy cũng như vậy

Nơi pháp vô thường ấy

Người siêng năng tu tập

Các chúng sanh như vậy

Được Chư Phật hộ niệm

Thời kỳ bố úy sau

Ông phải khai pháp ấy

Rộng vì các chúng sanh

Mà làm họ lợi ích

Thời kỳ bố úy sau

Nếu khai được pháp ấy

Phát sanh phước vô thượng

Số ấy chẳng lường được.

Đức Phật phán tiếp: Này Vô Biên Huệ! Giáp trụ của Đại Bồ Tát mặc gọi là đại thắng, cũng cọi là vô biên thắng, cũng gọi là đại trang nghiêm.

Thừa của các Ngài ngồi gọi là đại thừa, cũng gọi là vô biên quang, cũng gọi là diệu trang nghiêm.

Đạo của các Ngài hành gọi là vô lượng trang nghiêm tư lương, cũng gọi là vô luợng phương tiện tư lương. Do nơi đạo ấy mà Chư Đại Bồ Tát hướng đến vô thượng bồ đề.

Lại này Vô Biên Huệ! Thuở xưa quá vô lượng kiếp, lại gấp bội số kiếp ấy, có Đức Phật xuất thế hiệu là Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, vô thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, kiếp ấy tên là Điện Quang, Quốc Độ tên là Quang Minh.

Cõi nước ấy, mặt đất bằng phẳng không có những nhơ uế ngói sạn gai góc. Hoàng kim và bạch ngân làm cát đống bày hàng ngăn ranh rất đẹp mắt.

Trong Quốc Độ ấy, mỗi châu trong tứ châu thiên hạ rộng hai ức do tuần. Trong mỗi châu lại có bốn vạn tám ngàn thành lớn. Mỗi tòa thành ấy rộng mười do tuần, dài hai mươi do tuần, tường hào trang nghiêm tráng lệ rất cao. Trong mỗi thành có tám câu chi người ở, chia ra mười ngàn khu vườn bao vòng rất đẹp.

Trong Quốc Độ ấy lại có nhiều thứ cây hoa, cây trái, cây hương, cây y phục, cây thượng vị và cây kim cương xen lẫn nghiêm sức. Những ao hồ ven bờ ngay thẳng đầy nước bát công đức, đủ bốn màu hoa sen thường đua nở.

Đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai ấy thọ sáu mươi tám câu chi na do tha tuổi. Lại có sáu mươi câu chi na do tha Chúng Thanh Văn làm quyến thuộc.

Thuở ấy, nhân dân trong nước Quang Minh dung nhan xinh đẹp an ổn sung sướng, tham sân si nhẹ mỏng dễ giáo hóa. Dạy bảo chút ít họ liền biết rõ tánh tướng các pháp.

Này Vô Biên Huệ! Thuở ấy có Chuyển Luân Thánh Vương tên là Nhất Thiết Nghĩa thành đầy đủ bảy báu, bốn phương thần phục. Trong châu Diêm Phù Đề ấy có một tòa thành lớn rộng bốn mươi do tuần, nhân dân đông đúc an ổn giàu vui. Nội thành cung điện rộng năm do tuần dùng bảy báu để trang sức, cây Đa La đẹp rũ những linh lạc, trùm với lưới chân kim.

Chánh điện của nhà Vua thuần bằng lưu ly biếc rộng một do tuần, bốn mặt có ngàn trụ. Trên cung điện ấy lại có ngàn từng lầu cao lớn nghiêm đẹp, trang sức với những châu báu.

Trước điện có ao nước thơm trong vắt, bên cạnh lại có mười sáu ao nhỏ thơm sáng làm bằng bảy báu. Trong mỗi mỗi ao nước chảy xao động vang ra âm thanh vi diệu như trỗi nhạc.

Mỗi mỗi ao nhỏ có mười sáu bậc thềm, ao lớn có ba mươi hai bậc thềm. Mỗi mỗi bậc thềm thuần bằng chân kim. Cây báu bảy hàng, lưới báu giăng che, mùi thơm thượng diệu phất khắp cả thành, nên gọi ao nước ấy là ao hương quang.

Này Vô Biên Huệ! Luân Vương ấy có bốn phu nhân: Bà thứ nhất tên Vô Biên Âm, bà thứ hai tên là Hiền Thiện Âm, bà thứ ba tên là Chúng Diệu Âm, bà thứ tư tên là Nga Vương Âm.

Mỗi phu nhân đều riêng có hai con trai: Người thứ nhất tên Bất Không Thắng, người thứ hai tên Hiền Thắng, người thứ ba tên Long Thắng, người thứ tư tên Thắng Âm, người thứ năm tên Diệu Âm, người thứ sáu tên Phạm Âm, người thứ bảy tên Thắng Vân và người thứ tám tên Vân Âm.

Thể nữ có sáu ức người, con trai họ có mười ngàn người.

Thuở ấy, Luân Vương Nhất Thiết Nghĩa Thành ở trong nội cung đang vui chơi với quyến thuộc, bỗng thấy trên hư không có một Đức Như Lai nhan sắc vi diệu xuất hiện bảo Luân Vương rằng:

Đại Vương nên mặc giáp trụ vô thượng, ngồi thừa vô thượng mà hướng đến vô thượng bồ đề, trao thuốc trí huệ cho các chúng sanh. Chớ nên say đắm ngũ dục Nhân Thiên.

Đại giáp trụ ấy có thể nhiếp thọ vô thượng an lạc. Vô thượng thừa ấy có thể đưa vào vườn hoa vô thượng. Đã vào trong ấy thì chẳng còn lui về.

Tất cả những thứ dục lạc của Trời của người đều là những pháp vô thường biến đổi hư hoại, thế của nó chẳng còn lâu giây lát thì biến đổi tiêu diệt.

Luân Vương Nhất Thiết Nghĩa Thành nghe lời trên đây rồi, bạch cùng Đức Như Lai hiện trên hư không rằng: Ai là người chỉ dạy được đại giáp trụ ấy, như giáp trụ ấy mà mặc vào?

Ai là người chỉ dạy được đại thừa ấy, như đại thừa ấy mà ngồi ngự đó?

Ai là người chỉ dạy được đại đạo ấy, như đại đạo ấy mà hướng đến vậy?

Đức Như Lai ấy bảo rằng: Này Đại Vương! Có Đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai đang ngự nơi Đạo Tràng. Đại Vương nên đến chỗ ấy.

Đức Thế Tôn ấy sẽ vì Đại Vương mà chỉ dạy cho pháp mặc đại giáp trụ, ngồi nơi đại thừa, đến nơi đại đạo. Dạy bảo xong, Đức Như Lai ấy bỗng nhiên chẳng còn hiện.

Này Vô Biên Huệ! Thấy việc ấy rồi, Luân Vương Nhất Thiết Nghĩa Thành kính sợ sửng sốt phát tâm hi hữu chẳng còn thích các thứ dục lạc của Trời của người. Nhàm bỏ tất cả các hành hữu vi mà cầu đại giáp trụ đại thừa đại đạo.

Luân Vương cùng tám Vương Tử, bốn phu nhân cùng các Thế Tử, các thể nữ đồng đi đến chỗ đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai.

Khi đã đến trước Đức Phật, Luân Vương với quyến thuộc cung kính cúi lạy chân Đức Phật, đem một tăm hoa đẹp thất bảo rải trên Đức Phật, và đem vô lượng chi bà la dưng lên Đức Phật và chúng Thanh Văn. Lại suốt mười ngàn năm dâng cúng tất cả đồ cần dùng.

Sau đó Luân Vương rời bỏ ngôi Vua, cùng các quyến thuộc xuất gia trong chánh pháp của đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai.

Này Vô Biên Huệ! Lúc ấy Đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai biết lòng chí thành ưa thích của Tỳ Kheo Nhất Thiết Nghĩa Thành và các quyến thuộc của ông ấy, liền vì họ mà khai thị giáp trụ trang nghiêm và đại thừa trang nghiêm.

Tỳ kheo ấy được nghe pháp rồi phát tâm kiên cố vì pháp thậm thâm mà trọn đời ngồi ngay ngắn để tư duy siêng năng chẳng thối thất, thường gần gũi Đức Như Lai, với tất cả sự dục lạc thế gian được không động niệm.

Này Vô Biên Huệ! Thuở ấy đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai hỏi Tỳ Kheo Nhất Thiết Nghĩa Thàng rằng: Này Thiện Nam Tử! Nay ông mặc đại giáp trụ, ngồi ở đại thừa hướng đế đạo ư!

Do nơi đạo ấy có thể thành tựu Nhất thiết chủng trí, vô đẳng đẳng trí. Ông phải tinh tiến siêng năng đúng theo lý mà tu tập.

Tỳ Kheo ấy bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi chẳng thấy có pháp gì gọi là giáp trụ, cũng chẳng thấy có ai mặc giáp trụ, cũng chẳng thấy từ đâu mặc giáp trụ, cũng chẳng thấy có chỗ mặc giáp trụ.

Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi chẳng thấy có pháp gì gọi là thừa, cũng chẳng thấy có ai ngồi đại thừa, cũng chẳng thấy từ đâu có đại thừa, cũng chẳng thấy có chỗ ngồi đại thừa.

Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi chẳng thấy có pháp gì tên là đạo, cũng chẳng thấy có người do đạo này mà đã hướng đến hay nay hướng đến, cũng chẳng thấy từ đâu có đạo, cũng chẳng thấy có xứ sở của đạo.

Bạch Đức Thế Tôn! Tôi đối với vô thượng bồ đề, hoặc xa hoặc gần, hoặc quá khứ vị lai hiện tại đều không có được không có thấy. Hiện nay lúc tôi quan sát như vậy, thiệt không có chút pháp nào để thân cận và chứng nhập.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu tôi không chứng, có nên hỏi tôi rằng: Ông mặc giáp trụ, ngồi đại thừa và hướng đến đạo ư!

Đức Thế Tôn là đấng biết tất cả, là đấng thấy tất cả. Ngang bằng chỗ tôi theo pháp tu hành, chỉ có Đức Thế Tôn mới biết rõ được, mà chẳng phải là cảnh giới của hàng Thanh Văn và Duyên Giác.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần