Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Năm - Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI NĂM

PHÁP HỘI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT  

PHẦN MỘT  

Như vậy tôi nghe một lúc Đức Phật ở trên nhà Diệu Bảo Trang Nghiêm giảng đường chỗ sở hành của Như Lai. Như Lai oai thần đại công đức trang nghiêm đầy đủ các tướng tốt.

Nhân nơi bổn hành Phật địa được báo cung điện Bồ Tát xưng tán vô lượng, do thần lực Như Lai kiến lập, nhập vô ngại trí hành xứ sanh hỷ duyệt thù thắng, tư duy quán niệm tinh tiến trí huệ phân biệt xảo thuyết các công đức như vậy đều đầy đủ.

Được đời sau khen rằng: Đức Thế Tôn Chánh Giác khéo chuyển pháp luân, khéo có thể điều thuận tất cả chúng sanh, ở trong các pháp đều được tự tại, biết các chúng sanh tâm họ hướng đến chỗ nào, khéo có thể rốt ráo phân biệt tất cả các căn, khéo dứt hết những tập khí không còn dư, Phật Sự được làm tự nhiên thành tựu.

Cùng Chúng Đại Tỳ Kheo sáu trăm vạn người câu hội. Chư Đại Tỳ Kheo ấy tâm đã điều nhu kiết sử đã dứt, đều là con của Như Lai Pháp Vương hành pháp thậm thâm, khéo có thể biết rõ pháp vô sở hữu, thân các Ngài đoan chánh xinh đẹp đầy đủ oai nghi, đề là đại phước điền an trụ trong giáo pháp của Đức Như Lai.

Còn có Chư Đại Bồ Tát tăng câu hội. Chư Đại Bồ Tát này đã qua khỏi tất cả các hành mà chẳng bỏ sở hành của Bồ Tát, được vô sanh nhẫn mà đối với các chúng sanh chẳng xả đại bi, quá các thế gian mà thuận thế pháp siêng hoá độ chúng sanh, cũng có thể khéo nhập vào chỗ sở hành của Như Lai, mà lại chẳng rời chỗ sở hành của Bồ Tát.

Danh Hiệu các Ngài là: Nhật Phổ Minh Bồ Tát, Vô Ngại Nhãn Bồ Tát, Nhất Thiết Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát, Vô Ngại Hành Xứ Bồ Tát, Phân Biệt Biện Giác Bồ Tát, Tịnh Vô Lượng Võng Minh đăng Vương Bồ Tát, Bất Nhiễm Hành Xứ Bồ Tát, Hoại Ma Giới Phóng Quang Minh Bồ Tát, có bất khả kế A tăng kỳ bất khả tư bất khả xưng bất khả lượng vô tề hạn bất khả thuyết Bồ Tát Ma Ha Tát như vậy câu hội.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nói hạnh xuất yếu của đại thừa gọi là Vô Ngại pháp môn, trang nghiêm Bồ Tát đạo thành tựu Phật Pháp thập lực tứ vô sở úy, được biết các pháp tự tại nhập vào môn ấn Đà La Ni, nhập vào môn phân biệt biện luận, nhập vào môn đại thần thông, nhập vào môn bất thối chuyển luân chư thừa bình đẳng, nhập vào môn nhất tướng pháp giới vô phân biệt.

Nhập vào môn Thuyết Pháp tùy chúng sanh căn giải liễu sai biệt, nhập vào môn kiên pháp phân biệt phá ma giới thiện thuận tư duy, nhập vào môn vô ngại trí huệ đoạn trừ kiết sử kiến chấp, nhập vào môn vô đẳng nguyện phương tiện trí, nhập vào môn Chư Phật đẳng trí, nhập vào môn chư pháp vô ngại như thiệt phân biệt, nhập vào môn vô biến dị hình đẳng pháp.

Nhập vào môn thậm thâm thập nhị nhân duyên, nhập vào môn công đức trí huệ trang nghiêm Phật thân khẩu ý, nhập vào môn kiên cố tư duy tinh tiến niệm huệ vô tận, nhập vào môn Tứ Thánh Đế vì điều phục hàng Thanh Văn vậy, nhập vào môn viễn ly thân tâm hành vì điều phục hàng Bích Chi Phật vậy, nhập vào môn thọ ký nhất thiết trí, vì điều phục hàng Bồ Tát vậy, nhập vào môn chư pháp tự tại vì hiển.

Phật công đức vậy, khai thị giải nói hiển thị cho người được điều phục khiến họ được hiểu, dạy họ đọc sắp đặt thứ tự mở bày phân biệt khiến dễ tùy thuận chánh thuyết.

Lúc Đức Thế Tôn khéo phân biệt phương tiện nhập vào Phật Pháp như vậy, toàn Cõi Đại Thiên Thế Giới này, tất cả sắc màu hình tượng như núi Thiết Vi, núi Tu Di, các hắc sơn, tứ thiên hạ, thành ấp tụ lạc trong Diêm Phù Đề, đại hải giang hà, cỏ cây lùm rừng, cung điện của Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già.

Cung điện của Địa Thần, của hư không thần, cung điện của Trời Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Đà Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, Cung Điện của Phạm Thiên đến Sắc Cứu Cánh Thiên, cùng sắc thân của các chúng sanh thảy đều bị che ẩn mắt không thấy được, dường như là lúc kiếp tận sau khi hỏa tai khởi cả đại địa đều cháy tan mà đại thủy chưa xuất hiện, lúc bây giờ không còn có một màu sắc một hình tượng nào làm đối tượng cho nhãn căn cả.

Cõi Đại Thiên Thế Giới lúc bây giờ cũng giống như vậy không có một chút hình sắc nhiếp về Dục Giới và Sắc Giới, duy trừ những sắc tượng được thấy trong nhà Diệu Bảo Trang Nghiêm Đường.

Bấy giờ ở hư không nơi chẳng có y tựa phía trên nhà Diệu Bảo Trang Nghiêm Dường, tự nhiên có vô lượng trăm ngàn na do tha bảo đài trang nghiêm vi diệu được thế gian thích thấy, như Thế Giới đại diệu trang nghiêm Quốc Độ của Đức Phật Nhất Bảo Trang Nghiêm đài báu của đại thừa ngồi.

Các đài báu này cũng như vậy thấy chư đại chúng ngồi trong bảo đài. Trong nhà Diệu Bảo Trang Nghiêm Đường tự nhiên hiện ra Tòa Sư Tử bằng chân kim tịnh diệu cao mười ngàn do tuần, phát ra quang minh tịnh diệu soi khắp Cõi Đại Thiên Thế Giới này, ánh sáng ấy làm luốt mất ánh sáng của đại thừa.

Lúc bây giờ đại chúng hoan hỷ hớn hở tâm tình vui đẹp khen chưa từng có, chắp tay hướng Phật bạch rằng: Đức Như Lai ngày hôm nay quyết định nói đại pháp nên hiện thoại ứng này.

Tôn Giả Xá Lợi Phất thừa oai thần của Phật, từ bảo tòa đứng dậy chỉnh lại y phục trịch bày vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng lên Phật mà bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đây là thoại tướng gì có những sự sanh lòng vui đẹp thù thắng phát hiện đại thần biến như vậy.

Bạch Đức Thế Tôn! Đại chúng đây đều nghi hoặc, mong Đức Như Lai nói nhân gì duyên gì mà hiện ra sự vị tằng hữu này.

Đức Phật nói: Này Xá Lợi Phất! Phương đông cách đây quá số Thế Giới như số vi trần của tám Phật Thế Giới, có Quốc Độ tên Đại Trang Nghiêm, Phật Hiệu Nhất Bảo Trang Nghiêm Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn nay hiện tại thuyết pháp.

Có nhân duyên gì mà cõi ấy có tên là Đại Trang Nghiêm?

Vì những sự trang nghiêm ở cõi ấy dầu nói rộng ra đến một kiếp cũng chẳng hết, vì lẽ ấy mà có tên là Đại Trang Nghiêm.

Lại có nhân duyên gì mà Đức Phật ở cõi đại Trang Nghiêm ấy hiệu là Nhất Bảo Trang Nghiêm?

Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai ấy nhân một báu mà thuyết pháp, đó là báu đại thừa vô thượng vậy, do đây mà hiệu là Nhất Bảo Trang Nghiêm Như Lai.

Đức Phật Nhất Bảo Trang Nghiêm ấy cùng đại thừa đều lên ngồi tòa sư tử vọt ở hư không cao bằng tám mươi ức cây đa la, Phật vì đại thừa nói pháp môn Hư Không Ấn.

Sao gọi là pháp môn Hư Không Ấn?

Như tất cả pháp lấy hư không làm môn vì không có trụ xứ vậy, môn vô trụ xứ của tất cả pháp vì không có hình tướng vậy, môn vô hình tướng của tất cả pháp vì quá các hành xứ vậy, môn vô hành xứ của tất cả pháp vì trong ngoài thanh tịnh vậy, môn thanh tịnh của tất cả pháp vì tánh nó không ô nhiễm vậy, môn vô nhiễm của tất cả pháp vì tự tánh tịch tĩnh vậy.

Môn tịch tĩnh của tất cả pháp vì vốn không có tâm ý thức vậy, môn vốn không của tất cả pháp vì rời lìa vật và chẳng phải vật vậy, môn không có vật của tất cả pháp vì không có giáo tướng vậy, môn không có giáo tướng của tất cả pháp vì không có hình đoạn vậy, môn không có hình đoạn của tất cả pháp vì rời lìa nhân duyên cảnh giới vậy.

Môn không có nhân duyên cảnh giới của tất cả pháp vì tướng tịch diệt vậy, môn tịch diệt của tất cả pháp vì rời lìa hai tướng vậy, môn vô nhị của tất cả pháp vì xả biệt dị vậy, môn không có dị biệt của tất cả pháp vì nhập vào nhất tướng vậy, môn nhất tướng của tất cả pháp vì tự tướng thanh tịnh vậy, môn tự tướng thanh tịnh của tất cả pháp vì quá tam thế vậy.

Môn quá Tam Thế của tất cả pháp vì chẳng rời bình đẳng vậy, môn chẳng rời bình đẳng của tất cả pháp vì tướng ảo hóa chẳng phải tướng vậy, môn ảo hóa tướng của tất cả pháp vì thể chẳng thiệt vậy, môn không có thể của tất cả pháp vì không có tác tướng vậy, môn vô tác của tất cả pháp vì thân tâm xa lìa vậy, môn viễn ly của tất cả pháp vì lìa tướng lìa vô tướng vậy.

Môn vô tướng của tất cả pháp vì tướng bất động vậy, môn tướng bất động của tất cả pháp vì không có chỗ y dựa vậy, môn không có y xứ của tất cả pháp vì an trụ vô tế vậy, môn không có tế hạn của tất cả pháp vì không có ổ hang vậy.

Môn không có ổ hang của tất cả pháp vì không có ngã không có ngã sở vậy, môn không có ngã ngã sở của tất cả pháp vì không có chủ vậy, môn vô chủ của tất cả pháp vì tánh vô ngã vậy, môn vô ngã của tất cả pháp vì nội thanh tịnh vậy.

Này Xá Lợi Phất! Đức Nhất Bảo Trang Nghiêm Như Lai vì đại thừa mà nói rộng pháp môn Hư Không Ấn như vậy. Lúc Đức Như Lai ấy nói pháp có vô lượng A tăng kỳ đại thừa hiểu biết các pháp tánh cùng hư không bình đẳng, ở trong các pháp được vô sanh nhẫn.

Này Xá Lợi Phất! Ở Quốc Độ đại Trang Nghiêm ấy, chỗ Phật Nhất Bảo Trang Nghiêm có một Đại Bồ Tát tên là Hư Không Tạng dùng đại trang nghiêm để tự trang nghiêm, nơi các nguyện bất khả tư nghị là tối thắng hơn cả, được oai đức trong tất cả công đức, được vô ngại tri kiến bất khả tư nghị.

Dùng Bồ Tát công đức để tự trang nghiêm, dùng các tướng hảo để trang nghiêm thân mình, tùy chúng sanh đáng được độ dùng thiện Thuyết Pháp trang nghiêm miệng mình, dùng bất thối định trang nghiêm tâm mình, dùng các tổng trì trang nghiêm niệm, nhập vào các pháp vi tế trang nghiêm ý.

Thuận quán pháp tánh trang nghiêm tinh tiến, dùng kiên cố thệ trang nghiêm chí thuần, dùng quyết định xong trang nghiêm việc được làm, từ nhất địa đến nhất địa trang nghiêm cứu cánh, xả các sở hữu trang nghiêm bố thí, dùng tâm thanh tịnh lời nói lành trang nghiêm giới, với các chúng sanh tâm không chướng ngại trang nghiêm nhẫn nhục.

Các sự việc đều trọn đủ trang nghiêm tinh tiến, nhập định du hí thần thông trang nghiêm thiền, khéo biết phiền não tập khí trang nghiêm Bát Nhã, vì cứu hộ chúng sanh trang nghiêm từ tâm, chẳng bỏ rời các chúng sanh trang nghiêm lòng bi, tâm không do dự trang nghiêm nơi hỷ.

Rời lìa các ghét thương trang nghiêm nơi xả, du hí các thiền định trang nghiêm thần thông, được tay vô tận bảo trang nghiêm công đức, phân biệt rõ tâm hành các chúng sanh trang nghiêm trí, dạy chúng sanh những pháp lành trang nghiêm nơi giác, được huệ sáng sạch trang nghiêm huệ minh, được đúng nghĩa pháp và từ trang nghiêm biện tài.

Phá ma và ngoại đạo trang nghiêm những vô úy, được Phật vô lượng công đức để tự trang nghiêm, thường dùng các lỗ lông Thuyết Pháp để trang nghiêm nơi pháp, thấy pháp minh của Chư Phật để trang nghiêm tự minh, hay soi sáng các Phật Quốc Độ để trang nghiêm quang minh, lời nói không có lỗi lầm để trang nghiêm sở thuyết.

Thần thông theo chỗ thích nói để trang nghiêm giáo thọ, thần thông đến rốt ráo bốn thần túc để trang nghiêm biến hóa, thần thông nhập vào chỗ bí mật của Phật để trang nghiêm Chư Như Lai, thần thông tự giác ngộ chánh trí để trang nghiêm pháp tự tại, như thuyết mà làm không gì có thể phá hoại, được để trang nghiêm tất cả thiện pháp kiên cố.

Này Xá Lợi Phất! Hư Không Tạng Đại Bồ Tát ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy, nay cùng mười hai ức Đại Bồ Tát đồng phát ý muốn đến Thế Giới Ta Bà này lễ lạy ta cúng dường cung kính vây quanh, cũng vì Kinh Đại Phổ Tập này mà phân biệt ít phần pháp môn, lại cũng vì đại thừa từ mười phương phục các ma và ngoại đạo, lại vì thị hiện Bồ Tát du hí thần thông vậy.

Hư Không Tạng Đại Bồ Tát ấy muốn đến đây nên trước có thoại ứng đến hội sanh đại pháp minh, lại vì tăng ích khai pháp đại thừa, lại vì thọ trì Như Lai pháp, lại vì vô lượng chúng sanh phát sanh thiện căn, lại vì dùng thiện pháp điều như vậy.

Lúc Đức Thế Tôn nói sự ấy rồi, Hư Không Tạng Bồ Tát cùng mười hai ức Đại Bồ Tát cung kính vây quanh đồng đến chỗ Đức Nhất Bảo Trang Nghiêm Như Lai bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tôi muốn đến Ta Bà Thế Giới lễ bái cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni.

Đức Nhất Bảo Trang Nghiêm Phật nói: Các ông muốn qua đó thì tùy ý, nên phải biết thời. Hư Không Tạng Đại Bồ Tát cùng chúng Đại Bồ Tát liền đảnh lễ chân Phật Nhất Bảo Trang Nghiêm, đi nhiễu bên hữu bảy vòng, thừa Phật du hí vô tác thần thông bỗng nhiên chẳng hiện, trong thời gian khoảng một niệm, đến nhà Bảo Trang Nghiêm đường trên đài Diệu Bảo.

Hư Không Tạng Đại Bồ Tát mưa diệu hoa hương cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng cúng dường Kinh đại Phổ Tập, đó là những hoa Mạn Đà La, hoa Ma Ha Mạn Đà La, hoa Mạn Thù Sa, hoa Ma Ha Mạn Thù Sa, hoa Ba Lợi Chất Đa La, hoa Ma Ha Ba Lợi Chất Đa La, hoa Lô Giá Na.

Hoa ma ha lô giá na, các loại hoa trên đất dưới nước lớn bằng bánh xe, hoa trăm cánh, ngàn cánh, hoa trăm ngàn vạn cánh, tất cả hoa đều phát ánh sáng, mùi hương vi diệu, sắc hoa hương hoa làm vui đẹp tâm nhãn mọi người.

Những hoa thơm đẹp tươi sáng như vậy tuôn xuống đầy trong nhà Diệu Bảo Trang Nghiêm Đường chất cao một cây Đa La.

Còn có các thứ Thiên nhạc phát ra tiếng vô lượng pháp môn, những là tiếng nhạc hiệp với đàn Ba la mật, Thi La Ba la mật, nhẫn Ba la mật, Tiến Ba la mật, Thiền Ba la mật, Bát Nhã Ba la mật, tiếng nhạc hiệp với tứ vô lượng tâm, hiệp với tứ nhiếp pháp, hiệp với trợ đạo pháp, hiệp với tam giải thoát môn, hiệp với Tứ Thánh Đế, hiệp với thập nhị nhân duyên.

Cúng dường xong, Hư Không Tạng Bồ Tát đảnh lễ chân Phật hữu nhiễu bảy vòng rồi đứng qua một phía bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đức Nhất Bảo Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng đẳng Chánh Giác thăm hỏi Đức Thế Tôn ít bệnh ít não đi ở an ổn vui vẻ.

Đức Nhất Bảo Trang Nghiêm Như Lai lại còn nói có mười hai ức Bồ Tát cùng Hư Không Tạng Bồ Tát đồng đến Ta Bà Thế Giới mong Đức Thế Tôn vì họ nói pháp thậm thâm khiến họ được tự nhiên trí, cũng khiến họ thành tựu đại pháp quang minh rồi sẽ trở về Quốc Độ đại Trang Nghiêm.

Tại vì sao?

Do Đức Thế Tôn từ xa xưa đã từng giáo hóa chúng Bồ Tát này phát tâm vô thượng bồ đề vậy. 

Bạch lời trên xong, Hư Không Tạng Đại Bồ Tát, ngay trên đỉnh Đức Thế Tôn, hóa hiện lọng báu lớn rộng mười ngàn do tuần, cán bằng thanh lưu ly, cọng bằng chân san hô bảo, lợp bằng lưu ly bảo và vàng diêm phù đàn, rũ thòng những mành lưới chuỗi ngọc bằng diệu chân châu, có những linh những lạc reo tiếng hòa diệu.

Lọng ấy phát sáng chiếu suốt mười phương cùng xen với các loại hoa hương đẹp sáng.

Đối với công đức bất tư nghị của Đức Thế Tôn, Hư Không Tạng Đại Bồ Tát lòng rất kính trọng chắp tay hướng lên Phật nói kệ khen ngợi rằng:

Pháp nghĩa trí huệ đấng Tối Thắng

Bổn tịnh vô cấu vô sở trước

Như hư không chẳng nhiễm ô

Tôi lạy dưới chân Thánh bất động

Công hạnh không sánh không bờ đáy

Hiện pháp nghiêm thân rất thù thắng

Chân pháp thân Phật như hư không

Khắp trùm đại bi mà tế độ

Nhân Thiên Đạo Sư hay thị hiện

Trăm phước trang nghiêm thân Thế Tôn

Dứt các ngôn ngữ không âm vang

Lìa các ngôn thuyết không hí luận

Dầu biết như vậy mà hiện nói

Vô tánh chúng sanh khiến họ vui

Tâm chẳng phải tâm được tâm ấy

Biết được chẳng tâm tánh ảo hóa

Khéo biết chúng sanh tâm hành tánh

Mà hay chẳng trụ tâm bỉ ngã

Vì hiện oai nghi để độ chúng

Thân thiện thệ không tác chẳng tác

Phật biết chúng sanh theo chỗ thích

Liền hay thị hiện thân như vậy

Thế Tôn nơi pháp chẳng chấp ngã

Chẳng có nhớ tưởng trụ nơi pháp

Hay biết do pháp nào được độ

Rồi theo đáng nên nói đúng cơ

Đại chúng khát ngưỡng nhìn Thế Tôn

Hy hữu trong đời không gì sánh

Thế Tôn thị hiện mà vô tâm

Nhưng khiến đại chúng đều vui đẹp

Các pháp như vậy theo duyên sanh

Hư vô tịch mịch chẳng chân thiệt

Thế Tôn khéo biết pháp như vậy

Được đến Niết Bàn Đạo thanh lương

Bỏ nhị biên chẳng trụ trung đạo

Biết giả chẳng chân không tự tánh

Các pháp như vậy không tác giả

Khéo nói nghiệp quả chẳng đoạn thường

Chẳng phải chúng sanh thọ mạng nhân

Tịch tĩnh không tên như hư không

Như thiệt phân biệt không chúng sanh

An trụ đại chúng đến Cam Lộ

Xưa tu nhiều kiếp bất tư nghị

Cầu sức tinh tiến đại bồ đề

Diệu hạnh được làm nay đã thành

Nghĩa đến không đến đều tỏ biết

Tất cả các pháp thượng trung hạ

Đều biết bình đẳng thường không khác

Người trí chỗ biết biết không chấp

Ví vậy Thế Tôn định không loạn

Âm nhập xứ giới như ảo hóa

Tam giới đều như Trăng trong nước

Chúng sanh hư ngụy tánh như mộng

Do trí phân biệt nói pháp ấy

Thế nhân giả xưng gọi đắc đạo

Thiệt không có tướng đắc không đắc

Như đạo không đắc pháp không chuyển

Như pháp không chuyển không người độ

Thế nên độ chúng khỏi tử lưu

Tự độ độ tha hết điên đảo

Khéo hay an ủi người khổ não

Mình người diệt khổ đến vô vi

Chúng sanh không sanh không Niết Bàn

Chúng sanh bổn tịnh bất khả đắc

Đạo và chúng sanh dường ảo mộng

Tự giác như vậy giác nhiều người

Như trong hư không chẳng thấy sắc

Tất cả chúng sanh sắc cũng vậy

Các pháp lìa sắc lìa tướng sắc

Biết được sắc ấy thì được lìa

Dùng các dụ hay khen ngợi Phật

Chấp kiến khen Phật là báng Phật

Phật Đức hư không vô sai biệt

Vô hạn vô lượng là khen Phật

Lạy đấng tự tịnh cũng tịnh tha

Vô duyên vô tâm nhập vi tâm

Như Phật Công Đức Thế Tôn biết

Như Phật công đức nay tôi lạy

Hay biết chúng sanh không có ngã

Biết các pháp tế là ly dục

Người thấy pháp thân là thấy Phật

Tức là cúng dường mười phương Phật.

Hư Không Tạng Bồ Tát nói kệ ấy rồi, liền lúc ấy nhà Đại Bảo Trang Nghiêm Đường cùng tất cả các bảo đài trên hư không chấn động sáu cách, tất cả đaichúng tâm thanh tịnh vui vẻ hớn hở khen chưa từng có đồng nói Hư Không Tạng Đại Bồ Tát khéo có thể nói diệu kệ ấy, nếu có thiện nam, thiện nữ làm được pháp ấy thì cho đến trong mộng chẳng thấy có pháp lần lần sẽ được sư tử hống như Hư Không Tạng Đại Bồ Tát.

Hư Không Tạng Đại Bồ Tát nói những diệu kệ khen Phật rồi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Có ít điều muốn hỏi mong Thế Tôn cho phép, nếu được Phật cho phép mới dám thưa hỏi, tại sao, vì Đức Thế Tôn có vô lượng tri kiến hay biết được chúng sanh các căn có thuần thục có chưa thuần thục, vì Đức Thế Tôn sáng suốt trừ bỏ các tối tăm, vì Đức Thế Tôn rõ nghĩa khéo nói phân biệt rành các cú nghĩa, vì Đức Thế Tôn biết thời giờ chẳng quá hạn.

Vì Đức Thế Tôn chỗ nói chẳng lầm đúng như lời mà làm chẳng sai, vì Đức Thế Tôn biết thời giờ tùy sở hành của chúng sanh mà thuyết pháp, vì Đức Thế Tôn khéo du hý thông đạt các thần thông, vì Đức Thế Tôn khéo chân thiệt quán tâm hành của chúng sanh, vì Đức Thế Tôn rất không ô nhiễm ở trong các pháp được đại tự tại, vì Đức Thế Tôn tự tỏ ngộ giác liễu các pháp.

Vì Đức Thế Tôn chế ngự tà kiến chúng sanh dạy cho họ vào chánh kiến, vì Đức Thế Tôn là đại y vương có thể làm cho vô thỉ Thế Giới chúng sanh dứt hẳn các bệnh não, vì Đức Thế Tôn đại lực thành tựu thập lực, vì Đức Thế Tôn vô úy thành tựu tứ vô úy, vì Đức Thế Tôn tối thắng thành tựu thập bát bất cộng pháp, vì Đức Thế Tôn đại từ cứu tế tất cả chúng sanh tâm thường vô ngại.

Vì Đức Thế Tôn đại bi hành tri kiến vô ngã cứu khổ tất cả chúng sanh, vì Đức Thế Tôn đại hỷ hành thiền định giải thoát Tam Muội đến cứu cánh, vì Đức Thế Tôn đại xả hành dứt tất cả ghét thương tâm như hư không, vì Đức Thế Tôn được bình Đẳng Giác liễu các Phật Pháp vô ngại.

Vì Đức Thế Tôn không có lòng ghét thương cứu cánh thanh tịnh khen chê không lay động được, vì Đức Thế Tôn không có hy vọng trí huệ đầy đủ nơi lợi dưỡng kính khen không mong cầu, vì Đức Thế Tôn tất cả tri kiến tất cã Phật hành xứ đều đã cứu cánh.

Bạch Đức Thế Tôn! Tôi biết được Đức Thế Tôn có vô lượng vô biên công đức thành tựu như vậy, vì thế ở trong các pháp môn tôi có ít điều muốn hỏi.

Đức Phật nói: Này Hư Không Tạng! Phật cho phép ông hỏi, Phật sẽ theo chỗ ông bạch hỏi làm cho ông được vui thỏa.

Lúc ấy Công đức Quang Minh Vương Đại Bồ Tát hỏi Hư Không Tạng Đại Bồ Tát rằng: Nay Ngài vì ai mà muốn bạch hỏi Đức Như Lai?

Hư Không Tạng Đại Bồ Tát nói kệ đáp Công Đức Quang Minh Vương Đại Bồ Tát rằng:

Tất cả chúng sanh tâm bình đẳng

Người bình đẳng hay đến cứu cánh

Du hý trong đại bi vô cấu

Tôi vì chúng này hỏi Thế Tôn

Hay đến chánh giác không cấu uế

Đã không do dự dứt nghi kia

Tự được tỏ thấu lợi chúng sanh

Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn

Biết ngã vô ngã không sánh bằng

Vì chúng phát tâm không chấp chúng

Hay làm chúng sanh thoát ngã kiến

Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn

Hay hộ oai nghi thuận sở hành

Tâm ấy thanh tịnh như hư không

Kiên cố bất động như Tu Di

Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn

Tinh tiến không bờ huệ không sánh

Dũng kiện hay phá oán phiền não

Kiết mình đã dứt dứt kiết người

Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn

Thích cho oai nghi điều phục tâm

Thường trụ văn giới nhẫn tiến lực

Thiền định thần thông trí huệ sáng

Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn

Thích tu không vô tướng vô nguyện

Mà hiện thọ thân ở sanh tử

Vô sanh vô diệt đạt cam lộ

Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn

Tri kiến thậm thâm không ngằn mé

Thanh Văn Duyên Giác đều không bằng

Mà biết sở hành các chúng sanh

Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn

Khéo hay tỏ thấu thích chánh hạnh

Nơi chấp pháp phi pháp đã dứt

Thường ở chánh định tâm chẳng loạn

Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn

Các hiền sĩ chẳng dứt giống Phật

Hay hộ chánh pháp hộ Chúng Tăng

Danh đồn tam thế Chư Phật khen

Tôi vì chúng ấy hỏi Thế Tôn.

Hư Không Tạng Đại Bồ Tát nói kệ đáp Công đức Quang Minh Vương Đại Bồ Tát rồi bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát thật hành đàn Ba la mật bình đẳng với hư không?

Thế nào là Bồ Tát hành thi la Ba la mật, hành nhẫn Ba la mật, hành tiến Ba la mật, hành thiền Ba la mật, hành bát nhã Ba la mật bình đẳng với hư không?

Thế nào là Bồ Tát hành công đức, hành trí bình đẳng với hư không?

Thế nào là Bồ Tát chẳng rời lìa như như mà niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên, như Đức Phật đã hứa khả?

Thế nào là Bồ Tát tu hành các pháp bình đẳng như Niết Bàn?

Thế nào là Bồ Tát khéo phân biệt hành tướng?

Thế nào là Bồ Tát thọ trì Pháp Tạng Chư Phật, tùy theo Như Lai chỗ giác ngộ tánh tướng các pháp như thiệt biết tánh tướng các pháp rồi mà chẳng thủ chẳng xả?

Thế nào là Bồ Tát phân biệt các chúng sanh từ vô thỉ đến nay thanh tịnh mà giáo hóa các chúng sanh?

Thế nào là Bồ Tát khéo thuận phát hành thành tựu Phật Pháp?

Thế nào là Bồ Tát bất thối thần thông nơi các Phật Pháp đều được tự tại?

Thế nào là Bồ Tát nhập pháp môn thậm thâm mà hàng Thanh Văn, hàng Bích Chi Phật chẳng nhập được?

Thế nào là Bồ Tát nơi thập nhị nhân duyên được thắng trí phương tiện xa lìa nhị biên kiến chấp?

Thế nào là Bồ Tát được ấn Như Lai ấn cho như như vô phân biệt trí phương tiện?

Thế nào là Bồ Tát nhập môn pháp giới, tánh thấy tất cả pháp tánh bình đẳng?

Thế nào là Bồ Tát thuần chí kiên cố như Kim Cương, nơi đại thừa này tâm an trụ bất động?

Thế nào là Bồ Tát tự thanh tịnh giới mình như Phật Giới?

Thế nào là Bồ Tát được Đà La Ni trọn chẳng thất niệm?

Thế nào là Bồ Tát được Như Lai gia trì biện tài vô ngại?

Thế nào là Bồ Tát được tự tại thị hiện thọ sanh tử?

Thế nào là Bồ Tát phá các oán địch lìa bỏ bốn ma?

Thế nào là Bồ Tát lợi ích chúng sanh trang nghiêm công đức?

Thế nào là Bồ Tát lúc thế gian không có Phật mà hay làm Phật Sự?

Thế nào là Bồ Tát được hải ấn tam muội khéo có thể biết được tâm hành của các chúng sanh?

Thế nào là Bồ Tát biết được các trần giới vô ngại?

Thế nào là Bồ Tát oai nghi hạnh thành tựu lìa các tối tăm được quang minh thù thắng ở trong các pháp được tự nhiên trí mau được thành tựu nhất thiết trí hành?

Đức Phật nói: Lành thay, lành thay, này Hư Không Tạng! Ông khéo có thể phân biệt hỏi nơi Như Lai những diệu nghĩa như vậy.

Như ông đã từng cúng dường quá khứ vô lượng Chư Phật trồng các căn lành, tâm hành bình đẳng như hư không, Lễ Kính Chư Phật đến chỗ trí huệ sáng tỏ, phát siêng tinh tiến muốn đến Diệu Pháp tất cả Chư Phật, chẳng bỏ rời các chúng sanh đến đại từ bi cứu cánh, đã quá các ma nghiệp chẳng lìa thế pháp, dùng tâm lượng đồng hư không để thành tựu diệu pháp đại thừa vô thượng này.

Này Hư Không Tạng! Công đức của ông không có biên tế, khó so sánh được, ông đã từng ở chỗ hằng hà sa số Chư Phật quá khứ hỏi những sự việc ấy, ông cũng có thể tự nói, ông nên lắng nghe khéo suy gẫm, Phật sẻ vì ông mà phân biệt giải nói các sự được hỏi về công hạnh của đại thừa, mà Phật còn giải nói hơn đây có thể được vô thượng đại thừa Như Lai tự nhiên trí nhất thiết chủng trí.

Hư Không Tạng Đại Bồ Tát bạch rằng: Kính vâng, bạch Đức Thế Tôn! Tôi nguyện thích được nghe.

Đức Phật nói: Này Hư Không Tạng! Thành tựu bốn pháp, Bồ Tát hành đàn Ba la mật bình đẳng với hư không: Nếu Bồ Tát ở tất cả chỗ không có chướng ngại chẳng phân biệt mà hành đàn Ba la mật, do ngã tịnh nên bố thí cũng tịnh, do bố thí tịnh nên nguyện cũng tịnh, do nguyện tịnh nên bồ đề cũng tịnh, do bồ đề tịnh nên nơi tất cả các pháp cũng tịnh. Đây là Bồ Tát thành tựu bốn pháp thật hành đàn Ba la mật bình đẳng với hư không.

Này Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu tám pháp có thể tịnh đàn Ba la mật: Lìa ngã mà bố thí, lìa vì ngã mà bố thí, lìa thương yêu mà bố thí, lìa vô minh kiến mà bố thí, lìa tướng bỉ ngã mà bố thí, lìa các suy tưởng mà bố thí, lìa hy vọng báo đáp mà bố thí, lìa bỏn xẻn ganh ghét mà bố thí, tâm bình đẳng như hư không mà bố thí. Đây là tám pháp mà Bồ Tát thành tựu thì có thể Tịnh đàn Ba la mật. Tám pháp ly này gọi là tịnh thí.

Như hư không không có chỗ nào là chẳng đến, Bồ Tát từ tâm bố thí cũng như vậy.

Như hư không chẳng phải sắc chẳng thấy được, Bồ Tát hành thí chẳng y dựa nơi các sắc cũng như vậy.

Như hư không chẳng cảm thọ khổ vui, Bồ Tát hành thí rời lìa các sự khổ vui cũng như vậy.

Như hư không không có tưởng biết, Bồ Tát hành thí rời lìa các ý tưởng cũng như vậy.

Như hư không là tướng vô vi, Bồ Tát hành thí vô vi vô tác cũng như vậy.

Như hư không hư giả vô tướng, Bồ Tát hành thí chẳng y dựa thức tưởng cũng như vậy.

Như hư không tăng ích tất cả chúng sanh, Bồ Tát hành thí lợi ích tất cả chúng sanh cũng như vậy.

Như hư không vô biên vô tận, Bồ Tát hành thí ở trong sanh tử không có cùng tận cũng như vậy.

Này Hư Không Tạng! Như hóa nhân cấp thí cho hóa nhân không có phân biệt, không có hý luận, chẳng cầu quả báo, Bồ Tát hành bố thí bỏ lìa hai bên chẳng phân biệt chẳng hý luận chẳng hi vọng quả báo cũng như vậy.

Bồ Tát dùng trí huệ trừ bỏ tất cả kiết sử, dùng trí phương tiện chẳng bỏ tất cả chúng sanh, đây là Bồ Tát hành đàn Ba la mật bình đẳng với hư không vậy.

Trong Pháp Hội có một Bồ Tát tên là Nhật Đăng Thủ từ chỗ ngồi dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chấp tay bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Hàng Bồ Tát nào có thể Hành Đàn Ba la mật như vậy?

Đức Phật nói: Này Nhật Đăng Thủ! Nếu Bồ Tát quá các thế gian được pháp xuất thế gian, chẳng phải sắc không có thể không hiện hành, tri kiến thanh tịnh, chẳng phải tối chẳng phải sáng, lìa tất cả tướng đến tột vô tướng trí, thành tựu vô tận nhẫn.

Gần tri kiến của Như Lai, đã nối giới phần quyết định của Bồ Tát, đã được thọ ký, được ấn bất thối chuyển ấn định, đã được quán đảnh chánh vị, đã hành thiện hạnh biết hành tướng chúng sanh, đến tất cả chỗ mà không có chỗ đến. Bồ Tát như vậy có thể Hành Đàn Ba la mật này.

Lúc Phật nói Pháp ấy, có một vạn tám ngàn Bồ Tát thấy các Pháp tánh như hư không được vô sanh pháp nhẫn.

Đức Phật nói với Hư Không Tạng Đại Bồ Tát: Này Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hành thi Ba la mật bình đẳng với hư không: Bồ Tát biết thân như tượng trong gương, biết thanh như vang, biết tâm như huyễn ảo, biết các pháp tánh như hư không. Đây là Bồ Tát thành tựu bốn pháp hành Thi Ba la mật bình đẳng với hư không.

Này Hư Không Tạng! Bồ Tát thành tựu tám pháp thì có thể hộ tịnh giới:

Các Bồ Tát chẳng quên tâm Bồ Đề thì hay hộ tịnh giới.

Các Bồ Tát chẳng cầu bậc Thanh Văn, bậc Bích Chi Phật thì hay hộ tịnh giới.

Bồ Tát trì giới chẳng hạn cuộc nơi giới thì hay hộ tịnh giới.

Bồ Tát chẳng ỷ cậy các giới thì hay hộ tịnh giới.

Bồ Tát chẳng bỏ bổn nguyện thì hay hộ tịnh giới.

Bồ Tát chẳng y dựa tất cả chổ sanh thì hay hộ tịnh giới.

Bồ Tát thành tựu đại nguyện thì hay hộ tịnh giới.

Bồ Tát khéo nhiếp các căn để diệt phiền não thì hay hộ tịnh giới.

Đây là Bồ Tát thành tựu tám pháp thì hay hộ tịnh giới vậy.

Này Hư Không Tạng!

Như hư không rời lìa các hy vọng, Bồ Tát dùng tâm không có mong cầu hay hộ tịnh giới củng như vậy.

Như hư không thanh tịnh, Bồ Tát trì giới thanh tịnh củng như vậy.

Như hư không không có cấu uế, Bồ Tát trì giới không có cấu uế củng như vậy.

Như hư không không có nhiệt não, Bồ Tát trì giới không có nhiệt não cũng như vậy.

Như hư không không có cao hạ, Bồ Tát trì giới không cao không hạ cũng như vậy.

Như hư không không có ổ hang, Bồ Tát trì giới không có chỗ y dựa cũng như vậy.

Như hư không vô sanh vô diệt cứu cánh không biến đổi, Bồ Tát trì giới vô sanh vô diệt cứu cánh không biến đổi cũng như vậy.

Như hư không đều có thể dung thọ tất cả chúng sanh, Bồ Tát trì giới khắp có thể vận tải cũng như vậy. Bồ Tát vì lợi ích chúng sanh mà có thể hộ tịnh giới.

Này Hư Không Tạng! Như trăng trong nước không có trì giới phá giới, Bồ Tát rõ biết tất cả các pháp như thủy nguyệt không có trì giới phá giới củng như vậy.

Đây là Bồ Tát hành Giới Ba la mật bình đẳng với hư không vậy.

Này Hư Không Tạng! Nếu Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì hành nhẩn Ba la mật bình đẳng với hư không: Nếu Bồ Tát bị người mắng chửi chẳng báo lại vì biết rõ vô ngã, bị người đánh chẳng báo lại vì biết rõ không nhân, bị ngươì giận ghét chẳng báo lại vì lìa thấy có, bị người oán thù chẳng báo lại vì bỏ lìa hai kiến chấp, đây gọi là Bồ Tát thành tựu bốn pháp hành nhẫn Ba la mật bình đẳng với hư không.

Này Hư Không Tạng!

Nếu Bồ Tát thành tự tám pháp thì cò thể tịnh nhẫn Ba la mật:

Bồ Tát khéo tịnh nội thuần chí mà tu nhẫn Ba la mật.

Bồ Tát khéo tịnh ngoại chẳng hy vọng mà tu nhẫn Ba la mật.

Bồ Tát nơi Thượng Trung Hạ cứu cánh vô ngại tu nhẫn Ba la mật.

Bồ Tát tùy thuận pháp tánh không bị nhiễm trước mà tu nhẫn Ba la mật.

Bồ Tát lìa tất cả kiến chấp đồng hư không mà tu nhẫn Ba la mật.

Bồ Tát dứt tất cả giác quán đồng vô tướng mà tu nhẫn Ba la mật.

Bồ Tát bỏ tất cả nguyện đồng vô nguyện mà tu nhẫn Ba la mật.

Bồ Tát trừ tất cả các hành đồng vô hành mà tu nhẫn Ba la mật.

Đây gọi là Đại Bồ Tát thành tựu tám pháp có thể tịnh nhẫn Ba la mật vậy.

Này Hư Không Tạng!

Như hư không không có ghét không có thương, Bồ Tát tu nhẫn Ba la mật không có ghét thương cũng như vậy.

Như hư không không có biến đổi, Bồ Tát tâm cứu cánh không biến đổi tu nhẫn Ba la mật cũng như vậy.

Như hư không không có kém tổn, Bồ Tát tu nhẫn Ba la mật tâm cứu cánh không có kém tổn cũng như vậy.

Như hư không không có sanh không có khởi, Bồ Tát tu nhẫn Ba la mật tâm không có sanh khởi cũng như vậy.

Như hư không không có hí luận, Bồ Tát tu nhẫn Ba la mật tâm không có hí luận cũng như vậy.

Như hư không không có ân báo, Bồ Tát tu nhẫn Ba la mật với tất cả chúng sanh chẳng mong quả báo cũng như vậy.

Như hư không vô lậu vô hệ phược, Bồ Tát tu nhẫn Ba la mật lìa tất cả lậu chẳng hệ phược Tam Giới cũng như vậy.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần