Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bốn Mươi Bảy - Pháp Hội Bảo Kế Bồ Tát - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ BỐN MƯƠI BẢY

PHÁP HỘI BẢO KẾ BỒ TÁT  

PHẦN MỘT  

Tôi nghe như vậy!

Một thuở, Đức Phật ở tại nước La Duyệt Kỳ, núi Linh Thứu, cùng bốn vạn hai ngàn Chúng Tỳ Kheo. Tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đều từ Thế Giới Chư Phật mười phương đều đến tập hội.

Chư Bồ Tát này đều đã thông đạt Nhất Sanh Bổ Xứ, được vô sở trước vô chướng ngại, từ dũng mãnh phục tam muội mà xuất súc sanh, được thượng Liên Hoa tam muội, Kim Cương Đạo Tràng tam muội, thiện kiên trụ tam muội, thuần thục tu tam muội, tràng anh vương tam muội, Kim Cương tam muội, tịnh đức sự tam muội.

Phân biệt quyền hành đều được thân cận pháp của Chư Phật, ở dưới Phật thọ hàng phục độ các ma giới mà được kiến lập Phật Độ, được thành vô tận thuyết pháp tổng trì, được biết căn nguyên của tất cả chúng sanh, dùng biện tài vi diệu làm vui đẹp lòng đại chúng.

Là bước đi sư tử hùng mãnh vô úy, nếu vào giữa chúng hội thì ứng nghiệm thời nghi tuyên nói văn tự cú, thành tựu các hạnh thì dùng tướng oai đức để tự nghiêm sức, bỏ các sở hữu thế gian, xa rời các ngoại đạo, công đức hiển bày tiếng tăm suốt mười phương.

Chư Phật ngợi khen công đức vô lượng, đều từ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhất tâm, trí huệ mà thành. Tu tập đạo nghiệp từ vô số kiếp trăm ngàn na do tha, thấy biết bệnh của tất cả chúng sanh đúng bệnh cho thuốc đều khiến lành bệnh nhập vào pháp duyên khởi để bỏ các sự chấp đoạn diệt và có thường, đức hạnh thanh tịnh chí nguyện không vết nhơ tâm tánh sáng suốt.

Khai hóa quần sanh và đều nhiếp hộ khiến họ được thành tựu,dạy bảo rõ ràng ý được tự tại, thế lực kiên cường chẳng bỏ tâm từ, đầy đủ bảy Thánh tài: Tín, giới, văn, thí, tàm, quý và trí huệ, muốn độ chúng sanh nên dùng thiện phương tiện ở vắng vẻ rảnh rang cố sức tu tập thệ nguyện lành tốt, Thánh đức vô lượng, tâm như hư không.

Danh Hiệu của Chư Bồ Tát ấy là: Quang Quán Bồ Tát, Thường Minh Diệu Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Sư Tử Ý Bồ Tát, Sư Tử Bộ Bồ Tát, Sư Tử Lôi Âm Bồ Tát, Tôn Ý Bồ Tát, Kim Cương ý Bồ Tát, Kim Cương Bộ Bồ Tát, Kim Cương Tràng Bồ Tát, Kim Cương Chí Bồ Tát, Bộ Bất Động Tích Bồ Tát, Độc Bộ Thế Bồ Tát, Thiện Minh Bồ Tát, Liên Hoa Mục Bồ Tát, Liên Hoa Tịnh Bồ Tát.

Bảo Tịnh Bồ Tát, Câu Tỏa Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Bảo Sự Bồ Tát, Bảo Ấn Thủ Bồ Tát, Đức Diệu Vương Bồ Tát, Tịnh Vương Bồ Tát, Chấp Ly Ý Vương Bồ Tát, Điện Quang Nghiêm Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Nhuyến Âm Bồ Tát, Vũ Âm Bồ Tát, Bất Ly Âm Bồ Tát, Ý Tịnh Bồ Tát, Lôi Âm Bổ Tát, Giải Phược Bồ Tát v.v…

Còn có Phổ Thủ Chi v.v… mười sáu vị Chánh Sĩ, Chúng Hương Thủ v.v… sáu mươi Thánh sĩ, Tử Thị Chi v.v… ba mươi hai thanh tịnh hạnh sĩ, đây đều là Chư Bồ Tát trong hiền kiếp vậy.

Còn có hàng ma Thiên Tử, Tịnh Phục Tịnh Thiên Tử, Thiện Diệu Thiên Tử, Hiền Hộ Thiên Tử, Hoạch Thắng Thiên Tử, Ỳ Thắng Thiên Tử, Tịch Hóa Âm Thiên Tử, Ý Tư Thiên Tử v.v… hai vạn Thiên Tử đều chí nguyện Đại Thừa.

Trời Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích, Phạm Thiên Vương, Ma Vương, Nhuyến Mỹ Thiên Tử, cùng vô số Chư Thiên, Long Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân và Phi Nhân đồng câu hội.

Lúc ấy Đức Thế Tôn cùng đại chúng vô số trăm ngàn quyến thuộc vây quanh mà vì họ thuyết Kinh. Đức Phật ngồi tòa Đại Sư tử thanh tịnh dũng mãnh vô úy làm sư tử hống, như mặt nhật chiếu khắp, như mặt nguyệt tròn sáng, như lửa trừ tối, Tòa Sư Tử ấy sáng chói oai quang hơn hẳn Trời Thích Phạm, thân Phật lồ lộ như núi Tu Di hiện giữa đại hải.

Kinh Điển được Đức Phật nói, trước sau lời ý đều diệu thiện, đầy đủ nghĩa hay cứu cánh thanh tịnh. Đại Từ rộng tuyên bày Bồ Tát hạnh, giảng Bồ Tát pháp. Chỗ nên tuân tu gọi là tịnh hạnh.

Phương Đông cách cõi này chín trăm hai mươi vạn Phật Độ, có Thế Giới tên Thiện Biến, Phật Hiệu Tịnh Trụ Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đương hiện tại Thuyết Pháp.

Bên Đức Phật ấy có Bồ Tát hiệu La Đà Lân Na Châu cùng chung với tám ngàn Bồ Tát, nơi Phật Độ ấy bỗng ẩn mất, đến cõi Ta Bà này an trụ tại Trời Phạm Thiên dùng một bảo cái che trùm cõi Ta Bà khắp mua hoa Trời đủ các màu sắc.

Chư Bồ Tát ấy ở tại Phạm Thiên nói kệ rằng:

Chư Thiên nhân dân được lợi lành

Lòng nguyện thấy Phật Thích Sư Tử

Vì tiêu khổ não các việc tục

Tâm nguyện kiên cố tu Phật Đạo

Vô số Bồ Tát như hằng sa

Được thành Phật Đạo lìa ưu phiền

Tôi từ phương Đông mà đến đây

Thế Giới tên là Thiện Biến

Phật Hiệu Tịnh Trụ hiện giáo hóa

Tôi muốn được lạy Thích Sư Tử

Giả sử có người muốn nghe pháp

Hoặc thấy mười phương Chư Bồ Tát

Như muốn đảnh lễ Đức Thế Tôn

Phải mau gấp đến núi Linh Thứu

Chư Đại Đạo Sư khó được gặp

Pháp yếu Kinh Điển gặp cũng khó

Thân người khó được rỗi rảnh khó

Tin chắc cấm giới còn khó hơn

Giả sử hiện thời tạo đức bổn

Thì thấy chúng sanh tối và tà

Có thể khai thị khiến diệt độ

Mau cùng nhau đến chỗ Đức Phật

Nếu muốn giải thoát ba ác thú

Để được nhân Thiên chỗ an ổn

Sớm chứng vô vi tiêu sanh tử

Phải mau đến chỗ Đức Như Lai

Đấng đại Y Vương thí Cam Lộ

Đấng đại Đạo Sư chỉ đường chánh

Đấng đại Pháp Vương cầm Pháp Bảo

Hàng phục tất cả loải chúng sanh.

Bảo kế nói kệ ấy rồi đem tiếng kệ ấy truyền rao khắp Cõi Đại Thiên.

Nghe tiếng kệ ấy, Tôn Giả Xá Lợi Phất bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tiếng kệ nghĩa vi diệu ấy tử đâu phát xuất?

Đức Phật phán dạy: Này Xá Lợi Phất! Cách đây về phương Đông chín trăm hai mươi vạn Phật Độ, có Thế Giới tên Thiện Biến, Phật Hiệu Tịnh Trụ Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiện tại Thuyết Pháp.

Hầu hai bên Đức Phật ấy có Bồ Tát tên Bảo Kế cùng chung với tám ngàn Bồ Tát đồng đến cõi Ta Bà này muốn thấy ta để thưa hỏi Kinh Pháp, cũng muốn thấy Chư Bồ Tát mười phương tại Pháp Hội, nên dừng ở Trời Phạm Thiên nói kệ và khiến kệ ấy truyền khắp Cõi Đại Thiên cho vô số chúng sanh gieo trồng cội lành đồng đến chỗ ta, Thích Ca Mâu Ni Phật.

Bấy giờ Bảo kế Bồ Tát cùng tám ngàn Bồ Tát và vô số Thiên Tử vây quanh, trỗi trăm ngàn kỹ nhạc, mưa các thứ diệu hoa, phóng đại quang minh chấn động Cõi Đại Thiên, đến chỗ Đức Phật đảnh lễ chân Phật, nhiễu quanh Phật bảy vòng rồi đứng trước Phật.

Bảo Kế Bồ Tát bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Đức Tịnh Trụ Như Lai kính thăm vô lượng ý chí khương ninh đi đứng khinh tiện thế lực an ổn chăng?

Ngưỡng mong Thế Tôn ban ân lành vì Chư Bồ Tát mà ban dạy điều phải nên làm. Bồ Tát theo đó được đầy đủ cứu cánh thanh tịnh, mặc giáp tất cả công đức, chứa đầy hạnh lành bình đẳng thanh tịnh tu thân. Thấy sở niệm của tất cả quần sanh xem tướng hành của họ rổi theo sở ưng mà khai hóa. Dùng trí huệ làm dâm nộ si mà giảng thuyết pháp khiến nên diệu hạnh.

Nếu thấy chúng ta ở nơi tà pháp thì vì họ mà diễn bày giáo pháp bình đẳng. Được chư Như Lai hộ niệm giúp đỡ. Tất cả mọi loài chúng sanh đều được nương nhờ. Tất cả chúng ma không thể phá hoại. Được thấy Chư Phật không hề trở ngại. Chỗ được tuân tu đều thành hạnh thanh tịnh của Như Lai.

Những lợi lành như vậy do nhân gì mà được?

Đức Phật phán dạy Bảo Kế Bồ Tát: Lành thay, lành thay, này Tộc Tánh Tử! Ông hay hỏi Đức Như Lai những nghĩa như vậy. Lắng nghe lắng nghe khéo suy nghĩ. Ta sẽ giải nói hạnh thanh tịnh của Chư Bồ Tát thật hành. Bảo Kế Bồ Tát và đại chúng vâng lời dạy lắng nghe.

Đức Phật phán dạy: Này Tộc Tánh Tử! Bồ Tát có bốn pháp, thật hành theo đây thì được thanh tịnh:

Một là hành độ vô cực Ba la mật đa. 

Hai là thường phài huân tu đạo phẩm của Chư Phật.

Ba là đầy đủ thần thông.

Bốn là khai hóa chúng sanh.

Bồ Tát hành độ vô cực thì chỗ được khuyến trợ không đâu chẳng cùng khắp, vào tất cả cội công đức. Bồ Tát tu đạo phẩm là sử dụng đại tử biết rõ đúng thời vào đại trí huệ.

Bồ Tát có đủ thần thông là phân biệt tâm niệm hành nghiệp thiện ác của nhân dân. Bồ Tát khai hóa chúng sanh là đại bi kiên cố biết rõ chí nguyện căn tánh của tất cả mọi loài.

Này Tộc Tánh Tử! Sao gọi là Bồ Tát bố thí độ vô cực thật hành thanh tịnh?

Đó là tâm tập xan tham đều vứt bỏ cả, tâm tập bố thí đã có thể phóng xả, phá mất sự tham ái xấu dơ, khuyên gắng bố thí, tất cả sở hữu ban cho chẳng tiếc.

Bồ Tát làm việc bố thí rồi mà ở nơi bốn sự chẳng có quan niệm sai biệt:

Một là các loài chúng sanh không sai biệt.

Hai là tất cả Kinh Pháp chẳng sai biệt.

Ba là chỗ được khuyến trợ cũng không sai biệt.

Bốn là chí tánh bố thí cũng không sai biệt.

Thế nào là ở nơi chúng sanh không có sai biệt?

Bồ Tát chẳng quan niệm: Tôi sẽ thí cho người này không cho người kia, thí người này được phước nhiều, thí người kia được phước ít, hậu thí cho người này bạc thí cho người kia, cúng thí đây xong đến thí cho kia, nên thường thí đây đôi lần thí kia, đích thân mang thí đây không cần đích thân đến thí cho kia.

Thí đây đầy đủ thí kia sơ sài, người này giữ giới người kia phá giới, người này được đại chúng giúp đỡ người kia ít được giúp đỡ, người này hay trọn đức chúng giúp đỡ người kia không được trọn, người này tu chánh người kia hành tà, người này hay thật hành hạnh bình đẳng người kia đọa lạc nghiệp tà vạy.

Này Tộc Tánh Tử! Bồ Tát bố thí đều nên vứt bỏ các thứ tâm niệm như vậy mà tu tâm bình đẳng chẳng có sai biệt, thường nhờ đến chúng sanh mả cung ứng với tâm niệm bình đẳng để khai hóa họ, ý chí bình đẳng, từ bi vui vẻ cứu hộ không hề sót quên. Nói bình đẳng là như hư không chẳng có tăng giảm. Đây gọi là chúng sanh không có sai biệt.

Đức Phật phán dạy Bảo Kế Bồ Tát: Thế nào là các pháp chẳng sai biệt?

Giả sử Bồ Tát Thuyết Pháp mà tuyên bình đẳng, cũng chẳng quan niệm người phụng tu thì tôi sẽ cho kinh kẻ chẳng thuận pháp sẽ không cho, nếu đủ tất cả pháp tôi sẽ cho còn người không đủ sẽ không cho, người muốn hưng Đạo Giáo thật hành pháp thí mà bố thí cho phàm phu chẳng gọi là tổn hao bố thí cho Hiền Thánh chẳng gọi là trưởng ích, lại biết pháp vốn thanh tịnh bình đẳng không sai biệt vì lẽ ấy mà chỗ bố thí nên bình đẳng. Đây là ở nơi các pháp chẳng sai biệt.

Thế nào là chỗ được khuyến trợ cũng không sai biệt?

Những vật bố thí cùng đồ cúng dường có được khuyến trợ Bồ Tát cũng không quan niệm sai biệt. Nếu lúc bố thí, Bồ Tát chẳng quan niệm tôi sẽ được phước mong ngôi vị Đế Thích, Phạm Vương, Chư Thiên, chẳng ham chỗ năm loài sanh tử xoay vần, chẳng cầu thừa Thanh Văn, Duyên Giác. Chỗ bố thí chỉ dùng chí nguyện cầu đạo Vô Thượng Chánh Nhân. Đây gọi là khuyến trợ mà chẳng sai biệt.

Thế nào là chí tánh bố thí chẳng sai biệt?

Những gì được phóng xả?

Bổ Tát chí tánh ở nơi đạo, không có lòng sai biệt, hiệp hội cùng biệt ly tâm Bồ Tát không hề tăng giảm, chẳng cần đền đáp chỉ mong khai hóa tế độ kẻ chẳng bằng vượt đến bờ kia, tâm Bồ Tát này chất phác không có dua siểm, hoài bão đốc biến đổi, khi bố thí vật trân ái lòng rất vui mừng, có ai đến cầu xin mà có thể thí cho được thì Bồ Tát này càng vui mừng hơn. Đây gọi là Bồ Tát chí tánh bố thí cũng chẳng sai biệt. Trên đây là Bồ Tát thí độ vô cực không có sai biệt vậy.

Đức Phật phán tiếp:

Còn có tám sự vứt bỏ đương lúc thật hành việc bố thí:

Một là chẳng thấy ngô ngã.

Hai là chẳng thấy có người.

Ba là chẳng thấy có thọ mạng.

Bốn là chẳng thấy có đoạn diệt.

Năm là chẳng thấy có thường.

Sáu là chằng an trụ ba chỗ.

Bảy là chẳng thấy chỗ không có.

Tám là nếu bố thí phải nghiêm tịnh bố thí.

Bồ Tát bố thí trừ bỏ bốn trụ nghiệp:

Một là bỏ phi pháp thì dùng Kinh Điển khai hóa phàm phu.

Hai là bỏ tâm Thanh Văn chí cầu Đại Đạo.

Ba là bỏ Pháp Duyên Giác mà tu pháp bình đẳng.

Bốn là xa lìa những chỗ y ỷ chấp trước.

Bồ Tát còn rời lìa bốn điều tư tưởng: Thường tưởng, an tưởng, tịnh tưởng và ngã tưởng.

Còn có bốn sự là bố thí thanh tịnh: Thân tịnh, ngôn tịnh, tâm tịnh và tánh tịnh.

Còn cò ba sự bố thí vượt khỏi các trở ngại: Bỏ lòng hy vọng, bỏ lòng hờn giận và lìa tiểu thừa.

Còn có ba sự xa lìa thì bố thí rời khỏi các sợ sệt: Bỏ cống cao, lìa khinh mạng và xa ma nghiệp.

Còn có bốn bố thí dùng pháp được ấn chứng: Nội không, ngoại không, nhân không và đạo không.

Còn có bốn bố thí chỉ chuyên tinh tiến: Cho chúng sanh no đủ, đầy đủ Phật Pháp, thành tựu đủ tướng hảo nghiêm dung và sửa sang thanh tịnh Phật Độ.

Còn có bốn bố thí lòng thường chẳng quên bỏ: Ý thường nhớ Đạo Pháp, thường muốn thấy Phật, tu tâm đại từ và diệt trừ uế cấu trần lao của chúng sanh.

Còn có ba bố thí nghiêm tịnh Đạo Tràng: Thanh tịnh mình, thanh tịnh người và đến Đạo Tràng thanh tịnh.

Còn có bốn bố thí chỗ đem cho thanh tịnh: Dùng trí huệ bố thí, hay làm vui đẹp lòng chúng sanh, rành rẽ khuyến trợ và hiểu rõ quan sát Kinh Điển.

Này Tộc Tánh Tử! Đó là pháp nên được tu của Bồ Tát bố thí độ vô cực thành hạnh thanh tịnh.

Đức Phật phán bảo Bảo Kế Bồ Tát: Này Tộc Tánh Tử!

Bồ Tát hành Giới độ vô cực có một sự thành hạnh thanh tịnh: Đó là hiểu tâm Bồ Tát không ngang sánh, tâm ấy siêu quá tất cả thế gian tối tôn vô tỉ, vượt trên tâm các Thanh Văn, Duyên Giác, tâm ấy hay hàng phục tất cả các ma, vào trong chúng sanh, đến chỗ nào đều thành danh đức làm vô lượng bảo, các pháp được tuân tập khắp hộ trì lòng chưa hề quên. Đây là một sự thành hạnh thanh tịnh.

Còn có hai sự Giới độ vô cực thành hạnh thanh tịnh: Thường có lòng từ mẫn không hại chúng sanh và tâm chí ở nơi đạo điều như tánh hạnh.

Còn có ba sự Giới độ vô cực thanh tịnh:

Một là thân thanh tịnh ba điều thì giới không thiếu sót rốt ráo trọn đủ.

Hai là ngôn thanh tịnh tất cả lời được nói ra không có dua gièm.

Ba là ý thanh tịnh trừ bỏ các tham dục sân hại cấu uế.

Còn có bốn sự Giới độ vô cực thanh tịnh: Đủ giới thanh tịnh, giữ giới cấm chẳng phạm, dùng Giới Pháp ấy giáo hóa chúng sanh và thấy người trì giới thì kính họ như kính Phật.

Còn có năm sự Giới độ vô cực thanh tịnh: Chẳng tự khen mình, chẳng chê người, bỏ chí Thanh Văn, lìa ý Duyên Giác và không hề tham trước.

Còn có sáu sự giới dộ vô cực thanh tịnh: Thường niệm Phật chẳng phạm cấm giới, thường niệm Kinh Pháp thuận tu chánh hạnh, thường niệm Thánh Chúng chẳng trái Phật Giáo, thường niệm bố thí bỏ hết trần dục, thường niệm cấm giới chẳng còn tham mộ tất cả ngũ thú và thường niệm Chư Thiên tuyên những đức lành.

Còn có bảy sự Giới độ vô cực thanh tịnh: Đốc tin ưa thích pháp Chư Phật, thường nhớ tàm tu làm trọng nhiệm của chúng, thường nhớ quý thẹn suy nghĩ pháp đạo phẩm mà chẳng tự cao đại, luôn hòa ái chẳng não phiền hình người, không tàn hại sợ tội họa đời sau, chẳng làm phiền nhiễu người ngăn lòng lo buồn và thấy chúng sanh tại khổ não thì xót thương họ.

Còn có tám sự Giới độ vô cực thanh tịnh: Không dua gièm, không lòng mong cầu, chẳng tham lợi dưỡng, bỏ tham lam, không ỳ lại, biết vừa đủ nơi sở hữu của mình, hành Hiền Thánh thiền định đủ lòng đạm bạc, ở chỗ rảnh vắng không tiếc thân mạng và thích ở một mình xa lìa chúng hội, ưa đạo pháp sợ ba cõi chẳng lấy vô vi.

Còn có chín sự Giới độ vô cực thanh tịnh: Y luật giáo hóa chúng sanh cho họ đắc độ, lần lần tập chánh định để tu sửa tâm họ, khiến tâm cứu cánh chẳng có lòng nóng giận, tìm cầu sự tịch mịch ngăn tâm động niệm, tập làm oai nghi lễ tiết nghiêm chánh, vượt qua cấm giới chằng thấy thân mình, chưa hề khi hoặc xót thương quần sanh có đủ Đại Thừa, cứu cánh thành tựu giới hạnh chẳng còn thiếu kém và lòng thường hoài niệm siêng tu đức lành.

Còn có mười sự Giới độ vô cực thanh tịnh: Thanh tịnh thân ba việc, thanh tịnh khẩu bốn việc, thanh tịnh ý ba việc, nhớ bỏ dua gièm chí tánh chất trực chẳng nhỏ nhen, tâm tánh vào khắp tất cả không ai chẳng nhờ tế độ, tất cả cảm giác đều biết tiết hạn lấy lòng thương làm gốc đều cởi mở các kiết sử.

Tâm không cứng rắn giáo hóa chúng sanh đều dùng hạnh điều hòa, thường tu thân mình thấy kẻ đồng hàng thì khép nép cung kính, với chúng giúp đỡ thì khuyên dạy pháp Sự và cung cấp áo cơm khiến lìa bỏ nghiệp thế gian.

Còn có hai sự Giới độ vô cực thanh tịnh: Bị người hủy nhục thà chết chớ chẳng phạm cấm giới chẳng khởi tưởng niệm chẳng mộ của cải và không xoay quanh tham cầu tất cả các pháp giới hạnh rỗng không vô tướng.

Còn có hai sự: Nội tịnh trừ các cảm xúc và ngoại tịnh bỏ các cảnh giới.

Còn có hai sự: Thanh tịnh đạo tâm của mình vì hiểu tướng tự nhiên và giới phẩm thanh tịnh vì không có các tướng vậy.

Này Tộc Tánh Tử! Đó là Bồ Tát Giới độ vô cực hạnh thanh tịnh.

Đức Phật phán dạy Bảo Kế Bồ Tát: Này Tộc Tánh Tử! Thế nào là Bồ Tát Nhẫn Độ vô cực hạnh thanh tịnh?

Nếu bị người mắng nhiếc Bồ Tát nín nhịn không mắng lại là khẩu thanh tịnh, bị đánh chịu đau không đánh trả là thân thanh tịnh, bị giận thì thương mà không hận là ý thanh tịnh, bị hủy nhục mà không oán hờn là tánh thanh tịnh.

Lại nữa, Bồ Tát nếu nghe có kẻ phát lời thô lỗ vì hộ chúng sanh mà chẳng khởi giận hờn, dầu có bị đao gậy chém đập, bị ngói đá ném đánh, vì hộ Đời sau nên chẳng có lòng giận hại. Dầu bị rã rởi chi thể, Bồ Tát chẳng vì đó mà lo buồn bởi thuận theo đạo vậy.

Bị người đòi cầu chẳng hề hờn giận bởi tế độ bốn ơn vậy. Phát tâm đại từ mà chẳng sân giận bởi gần Phật Đạo vậy. Sanh tâm đại bi bởi đầy đủ đại nguyện vậy. Công huân bủa rộng không ai chẳng phụng mạng bởi nhiều lòng thương vậy.

Lòng nhân từ nói lời ca ngợi công đức chỗ đem bố thí đều vì Đạo Pháp bởi xa bỏ Thiên Ma vậy. Lại nữa, Bồ Tát niệm Phật Đạo mà hành nhẫn nhục vì thành tựu thân Phật vậy.

Nếu niệm giác ý mà hành nhẫn nhục vì đủ thập lực vậy?

Nếu niệm trí huệ mà hành nhẫn nhục vì để đủ tam đạt vô chướng ngại vậy. Niệm thương xót mà hành nhẫn nhục vì thành lòng đại từ vậy.

Niệm độ hư vọng mà hành nhẫn nhục vì trọn lòng đại bi vậy. Niệm không kinh sợ như sư tử chúa vì vô sở úy vậy.

Niệm vô kiến đảnh tướng mà hành nhẫn nhục vì ở giữa chúng sanh mà không tự cao đại vậy.

Niệm đủ tướng hảo mà hành nhẫn nhục vì muốn cứu tế khắp các thế gian vậy.

Đủ các Phật Pháp mà hành nhẫn nhục vì thành tựu thông tuệ vậy!

Này Tộc Tánh Tử! Có hai sự pháp mà sức nhẫn nhục thanh tịnh: Chuyên ròng tu đạo nghiệp và hiệp họp nghĩa lực. Bị người nặng lời mà hay nhẫn nhịn thân tâm an lạc, đó là hiệp họp nghĩa lực. Nơi tất cả pháp không hề chấp trước mà hành nhẫn nhục đó là tu đạo nghiệp.

Người có tâm nhẫn thanh tịnh thì hay nhẫn nhịn chúng sanh biết rõ không có người, nhẫn được các pháp thảy đều đạm bạc, đây là tịnh nhẫn.

Tại sao?

Vì ở nơi ấy không có gì là đáng nhẫn và chẳng phải nhẫn. Nơi tất cả pháp không có gì để được mới gọi là nhẫn. Nơi ngưởi nhẫn cũng chẳng thấy có, nơi tất cả pháp không chỗ chấp trước mới gọi là nhẫn. Không chỗ nương, không chỗ nhẫn chẳng thọ các pháp đây gọi là nhẫn, chẳng lấy sở thủ cho là nhẫn nhục vậy.

Người chẳng chấp ngã nhân thọ mạng các pháp đây gọi là nhẫn nhục. Người chẳng chấp có thân mạng xem như loại tường vách ngói đá mới gọi là nhẫn vậy.

Này Tộc Tánh Tử!

Bồ Tát có hai nhẫn:

Một là hiểu rõ thân thể chi phần ly tán.

Hai là biết rõ các pháp đều bổn vô, như vậy mới thành nhẫn nhục.

Đây là Bồ Tát Nhẫn Độ vô cực hạnh thanh tịnh.

Đức Phật phán dạy Bảo Kế Bồ Tát: Này Tộc Tánh Tử! Thế nào là Bồ Tát tinh tiến độ vô cực thành hạnh thanh tịnh?

Bồ Tát chẳng bỏ đạo tâm, nơi công nghiệp được làm chẳng hề khiếp nhược, thường siêng tu tập mà chẳng ngủ nghỉ, chẳng rời cội công đức, chứa họp công dức, nơi độ vô cực chẳng thối chẳng lui, nếu đến nhà tu hành thì phương tiện cầu pháp, có thể vì người mà giảng thuyết Kinh Pháp.

Bảo hộ Chánh pháp độ thoát nhiều người, chẳng nhàm đại huệ khai hóa chúng sanh, nghiêm tịnh Phật Độ độ hàng Tiểu Thừa, đầy đủ bổn nguyện cứu cánh Thánh huệ, chưa từng trái mất thí giới đa văn, thân cận quyền huệ đã đến nhà phước đức, nên dùng ý nào để cứu tế chúng sanh cho họ không kiêu mạn.

Trên đây gọi là tinh tiến.

Những gì là tịnh?

Nếu hiểu rõ thân như bóng như vang, nói lời nhu nhuyến, ý niệm chẳng mỏi, trí huệ cứu cánh mà tâm tịch tĩnh, sáng suốt nơi việc làm trọn chẳng cùng tận, phân biệt các diệt huệ không có sở khởi, đây là tịnh vậy.

Bồ Tát ấy có ba sự rời lìa tinh tiến: Nương chấp nhân duyên, hành điên đảo sự và vọng tưởng nơi diệt pháp. Nếu ở nơi Tam Giới mà không sở trước chấp nương gá thì là tinh tiến.

Còn có ba sự: Mắt không sờ trước, chẳng nương gá nơi sắc trần và chẳng tham nơi thức phân biệt. Như nơi mắt, nơi tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng vậy, đều không sở trước, không gá nhân và không ham phân biệt, đây gọi là tinh tiến.

Không bố thí mà chẳng xan tham, không trì giới mà chẳng phạm, không nhẫn nhục mà chẳng tranh cãi, không tinh tiến mà chẳng giải đãi, chẳng thiền định mà chẳng tán loạn, không trí huệ mà chẳng ngu si, không tạo đức bổn mà không gì là chẳng lành, không cầu Phật Đạo cũng chẳng lấy bậc Thanh Văn, Duyên Giác, không sở hành mà không chẳng làm.

Đây thì thành hai tinh tiến thanh tịnh hạnh:

Một là nội tâm vô sở trụ mà hưng khởi các nhân duyên.

Hai là bỏ ngoại kiến các tưởng các thức, đây là hai tinh tiến.

Còn có hai hạnh thanh tịnh: Nội tâm tịch định và chẳng duyên ngoại cảnh cũng chẳng phóng dật. Đây là hai hạnh thanh tịnh, căn tánh tinh tiến, nơi càc sở hành vẫn không có sở hành cũng không có khinh rẻ đùa bỡn. Đây là Bồ Tát tinh tiến độ vô cực hạnh thanh tịnh.

Đức Phật phán bảo Bảo Kế Bồ Tát: Thế nào là Bồ Tát tịch độ vô cực hạnh thanh tịnh?

Này Tộc Tánh Tử! Bồ Tát ân cần nơi sự hiệp họp nhất tâm quán chỗ nên quan sát mà dùng chánh thọ. Bồ Tát này nếu được nhất tâm thì trong thiền định chẳng chấp trước nơi sắc cảnh, vứt bỏ các thức phân biệt đau ngứa tư tưởng sanh tử.

Thiền giả như vậy chẳng chấp trước các thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, chẳng chấp trước các trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, chẳng chấp trước các đại dịa, thủy, hỏa, phong, không, chẳng chấp trước các ngôi vị Đế Thích, Phạm Thiên, tôn hào, chẳng chấp trước các Cõi Dục, Sắc, Vô Sắc.

Chẳng nương đời nay đời sau, chẳng an trụ nơi thân thể cũng không có chỗ ở, chẳng nương ngôn từ, tâm chẳng mỏi lười, đều không có sở trụ, chẳng sốt chẳng bạo, chẳng an trụ biên tế, được không có sở niệm.

Thiền giả như vậy chẳng thấy có thân thể, chẳng hưng khởi các kiến chấp, chẳng tham ngã, nhân, thọ, mạng, chẳng thấy những sự vi diệu khả bất khả, chẳng thấy đoạn diệt, chẳng thấy vô thường, chẳng thấy sanh diệt hữu xứ vô xứ.

Thiền giả như vậy cũng chẳng dứt hẳn nguồn các lậu, chẳng tham trước Chư Phật, chẳng nhập vào vị quả chứng tịch diệt, cũng chẳng ở mãi nơi không có sở hành.

Người hành thiền như vậy nhất tâm thấu hiểu nơi không mà không lấy không làm chỗ chứng nhập, cầu nơi vô tướng vô nguyện mà không chứng nhập vô tướng vô nguyện. Người hành thiền này mặc giáp đại đức, hành từ vô cực trụ ở đại bi, tất cả đầy đủ phụng hành không sự.

Thế nào là đầy đủ phụng hành không sự?

Hảnh giả này chẳng tưởng bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhất tâm, trí huệ, chẳng tưởng thiện quyền các sự khai hóa, chẳng tưởng từ bi hỉ nộ, cũng chẳng hy vọng nhập vào Thánh huệ, chẳng tưởng đạo tâm có chỗ quán sát, chẳng tưởng chí tánh có chỗ sở ứng.

Chẳng tưởng tứ ân các lợi ích huệ thí nhân ái lợi ích cho người và tất cả sự cứu tế, chẳng tưởng tâm ý an tường mà có sở tồn, chẳng tưởng ý chỉ ý đoạn thần túc, căn lực, giác ý và bát chánh đạo, chẳng tưởng tịch mặc mà quán sát các pháp, chẳng tưởng các hạnh điều định nhu nhuyến, chẳng tưởng tàm quý có chỗ hổ thẹn, thường an trụ Phật Đạo chưa hề đoạn tuyệt.

Theo chánh giáo pháp nhãn cầm đuốc sáng lớn, tùng Thánh Chúng thường tu giới đức sạch bóng, an lập chúng sanh thành tựu thân Phật, dùng đức trang nghiêm mà theo Đấng Thế Hùng nghe âm thanh Cụ Túc, phụng Phật tam muội được biện tài Chánh Giác thần túc.

Thọ Mười Tám Phật Pháp bất cộng vi diệu, chẳng hiệp đồng với Thanh Văn, Duyên Giác, nhổ bỏ chỗ ở các dục trần ô uế, chẳng rời thần thông dùng bốn biện tài khai đạo chúng sanh, sáng tỏ các pháp hiện đời độ đời, giáo hóa chúng sanh siêu dị quần chúng.

Chất trực xuất gia qua khỏi dòng chảy xiết dứt các sở hữu, nơi được ở tự nhiên tĩnh mịch pháp giáo đạm bạc, quán nơi thân và pháp đều không tham ái kiên chí nơi Phật Pháp.

Trọn xong trí tự nhiên vượt khỏi các trụ hành, nín lặng lời nói, nếu có nói thì thường tuyên Phật ngữ, dùng sự chí thành ấy tiêu diệt thường niên khai hóa chúng sanh. Đây gọi là đầy đủ hành không vậy.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần