Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Hai - Pháp Hội Vô Biên Trang Nghiêm - Phẩm Thứ Nhất - Vô Thượng đà La Ni - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ HAI

PHÁP HỘI VÔ BIÊN TRANG NGHIÊM  

PHẨM THỨ NHẤT

VÔ THƯỢNG ĐÀ LA NI  

PHẦN MỘT  

Như vậy, tôi nghe!

Một lúc Phật ở thành Vương Xá Ca Lan Đà Trúc Lâm, Chúng Đại Tỳ Kheo và vô lượng Đại Bồ Tát câu hội. Chư Đại Bồ Tát này đều là bậc Nhất Sanh Bổ Xứ từ Phật độ khác vân tập đến đây. Lúc bấy giờ đại chúng vây quanh cung kính cúng dường Đức Thế Tôn.

Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát rời chỗ ngồi trịch y vai bên hữu, quỳ gối mặt, chắp tay hướng lên Phật mà bạch rằng: Thế Tôn! Tôi có chút ít nghi nay muốn thưa hỏi. Xin Đức Như Lai thương xót cho phép.

Phật bảo Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát: Này thiện nam tử! Như Lai cho phép ông hỏi. Như Lai sẽ giải thích chỗ nghi cho ông được vui mừng.

Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Tôi vì Chư Bồ Tát muốn trang nghiêm vô biên trí huệ mặc áo giáp tinh tấn, vì người cầu phương tiện thiện xảo, vì người cầu trí huệ thiện xảo, vì người sơ phát tâm quyết định đại trí, vì người đã an trụ đạo bồ đề, nên nay tôi thưa hỏi Đức Như Lai.

Tôi cũng vì Chư Bồ Tát muốn làm lợi ích chúng sanh, muốn chúng sanh đều phát đại tâm tu hành đại trí, dõng mãnh tinh tấn được chẳng thối chuyển Vô Thượng Bồ Đề, nên nay thưa hỏi Đức Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Có Chư Bồ Tát vì loài hữu tình mà nguyện đến bờ kia. Lại có Bồ Tát quyết chí cầu vô ngại vô úy, phương tiện theo cơ khéo phân biệt diễn thuyết pháp nghĩa, và tuyên dương bổn tánh tự tánh của các pháp đúng như thật.

Lại có Bồ Tát được tâm vô đẳng, tâm tối thắng, tâm vô thượng được tự tại. Tôi vì Chư Bồ Tát trên đây mà thưa hỏi Đức Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh cầu tự nhiên trí, vô sư trí, phá vỏ vô minh, vượt hơn tất cả chân thiên, làm lợi lạc tất cả thế gian. Tôi cũng vì những Bồ Tát này mà thưa hỏi Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Chư Bồ Tát đã an trụ nơi bậc này mau được viên mãn Phật Quả, có thể chứng những môn Ba la mật bất khả tư nghì, dùng chút ít công dụng thành thục chúng sanh, khiến chúng sanh lìa ác thêm thiện, chỉ bày chủng tánh Phật, có thể an lập vô lượng chúng sanh chẳng thối chuyển đạo vô thượng bồ đề. Nay tôi vì hạng này mà thưa hỏi Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Đại chúng đây đều đã vân tập, ngưỡng mong Đức Như Lai diễn thuyết pháp môn vi diệu truyền dạy Chư Bồ Tát khiến họ được viên mãn đại nguyện, và được trọn nên căn lành nhất sanh bổ xứ.

Bạch Thế Tôn! Môn Đà La Ni vi diệu như vậy, Đức Như Lai nên tùy thời truyền dạy khiến Chư Bồ Tát có thể thọ trì vô lượng pháp môn, an trụ vô biên đại thần thông, thành thực vô lượng vô số chúng sanh đều được nhiếp thọ Phật trí. Xin Đức Như Lai khai thị pháp môn như vậy, chúng sanh sẽ được chứng đạo Bồ Đề.

Bạch Thế Tôn! Từ xưa, Đức Phật đã từng trải qua thời gian lâu xa phát nguyện rộng lớn làm cho vô số chúng sanh được Phật trí và tự nhiên trí. Nay Phật nên diễn nói môn Đà La Ni này cho các Bồ Tát được trọn nên thiện căn của mình, và cũng nhờ sức oai thần của Phật gia hộ để giữ gìn đại nguyện bất tư nghì của Chư Bồ Tát.

Bạch Thế Tôn! Đại chúng đây chiêm ngưỡng Đức Như Lai không tạm rời. Tất cả đều một lòng mong cầu nhất thiết trí và các pháp tạng, muốn được nghe diệu nghĩa quyết định của Như Lai.

Đức Thế Tôn an trụ trong cảnh nhất thiết trí, đã biết tâm nguyện của Chư Bồ Tát này. Thế Tôn nên nói cú nghĩa viên mãn của môn Đà La Ni, làm cho Chư Bồ Tát chưa thành thục đều được thành thục, người đã thành thục thời mau được thần thông và được giải thoát tri kiến.

Bạch Thế Tôn! Chư Bồ Tát trụ bậc bất định nếu được dự nghe diệu pháp thời được thành tựu cảnh giới nhất thiết trí.

Bạch Thế Tôn! Do những duyên cớ trên đây nên tôi dám thưa hỏi việc lớn. Xin Đức Đại Từ giảng thuyết diệu pháp, dùng oai thần gia hộ nhiếp thọ Chư Bồ Tát.

Bạch Thế Tôn! Đời mạt thế sau này, trong thời kỳ đấu tranh, chúng sanh nhiều chấp trước làm hại lẫn nhau, thêm lớn tham, sân, si, hoại loạn chánh pháp.

Khiến Chư Bồ Tát ở trong thời kỳ đó, dùng đức đại từ bi chịu đựng mọi sự khổ để lưu hành diệu pháp này, không tranh không đấu. Do không tranh đấu nên có thể nhiếp thọ đại từ đại bi, và sẽ chứa nhóm những căn lành.

Bạch Thế Tôn! Do nghĩa trên đây nên nay tôi dám thưa hỏi Đức Như Lai về pháp môn vô ngại và diệu nghĩa quyết định.

Bạch Thế Tôn! Phương tiện gì để Chư Bồ Tát phát khởi vô lượng pháp môn?

Lại xin Đức Như Lai nói pháp môn tịch tịnh chẳng diệt hoại, gồm diễn nói pháp Tạng vi mật, thành tựu chánh niệm để hàng phục ma oán và ngoại đạo, mà chẳng bị họ xô phá.

Xin Đức Như Lai diễn nói chánh pháp cho chúng sanh chứa nhóm căn lành cũng khiến họ chứa nhóm vô biên phương tiện thiện xảo, thẳng đến nhất thiết trí, kết tập vô lượng pháp yếu, được biện tài vô ngại, cũng khiến họ chứng được vô lượng pháp môn và Đà La Ni, lại khiến họ phát tâm vô trụ.

Cũng làm cho Chư Bồ Tát rõ biết bổn sự của Chư Phật, dùng thần thông vô úy khắp các Thế Giới truyền pháp nhãn thanh tịnh cho chúng sanh, cũng khai thị diệu pháp bất tư nghì trọn nên Phật trí.

Do những nghĩa này tôi dám thưa hỏi, xin Đức Thế Tôn nói diệu pháp rộng lớn rất sâu của Phật, làm cho Chư Bồ Tát được viên mãn bổn nguyện.

Chư Bồ Tát này dự nghe diệu pháp rồi đều sẽ được chứng trí huệ thiện xảo đại Bồ Đề, và những hoằng thệ đều được viên mãn.

Phật bảo Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát: Lành thay! Lành thay!

Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông vì Chư Bồ Tát trụ nguyện thanh tịnh phương tiện thiện xảo, cũng vì thương xót chúng sanh, nên dùng trí huệ quyết định khéo thưa hỏi Như Lai. Công đức của ông không có hạn lượng.

Ông lắng nghe và khéo suy nghĩ, Phật sẽ giải thuyết cho. Khiến Chư Bồ Tát đối với cảnh giới trí huệ của Như Lai, được sanh vô lượng công đức.

Này thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát vì cầu vô biên thiện xảo phương tiện, thời phải rõ biết ngữ ngôn bí mật của Chư Phật, rồi thọ trì tư duy quan sát đúng lý.

Quan sát như thế nào?

Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trí của Như Lai nhiếp các phương tiện, những điều diễn thuyết đều thanh tịnh cả. Chư Bồ Tát cần phải tiến tu pháp yếu này. Lời của Chư Phật đều từ nơi đại bi, đều bình đẳng khắp với quần sanh. Quyết định thành thục các loài hữu tình.

Hoặc có hạng trụ nơi hạ thừa cầu được giải thoát trong đạo Thanh Văn. Có hạng phát thệ rộng lớn viên mãn chân thật Niết Bàn thành nhất thiết chủng trí.

Nay Phật an trụ giải thoát vô thượng, xa hẳn pháp hạ liệt của các thừa khác, đã khéo vào ngữ ngôn bí mật của Chư Phật, nói câu lời vô tỉ rộng lớn thanh tịnh nhiếp thọ các pháp của Như Lai, khiến các hàng hữu tình theo căn tánh của họ mà được giải thoát thành thục.

Dầu vậy, nhưng nơi pháp yếu này thảy đều bình đẳng, chẳng thêm chẳng bớt, không thiếu sót, nhẫn đến vô biên tế tự tánh thanh tịnh.

Lời diễn thuyết của Chư Phật đều thấu rõ như thật bổn tánh tự tánh, nhưng trọn không có pháp rõ thấu cùng chẳng rõ thấu. Vì tất cả pháp môn đều là Như Lai dùng giả danh mà tuyên thuyết.

Nếu các pháp kia đã là giả danh, thời chẳng thể dùng pháp để thi thiết, cũng không hiện bày. Vì không hiện bày, nên những điều Phật nói đều là thắng nghĩa chân thật.

Tùy theo pháp mà đồng vào tất cả pháp. Với tất cả pháp chẳng trụ nơi phân biệt, cũng chẳng phải chẳng trụ. Do pháp phân biệt cùng chẳng phân biệt bình đẳng như thật mà chứng tất cả pháp vô sai biệt.

Pháp vốn không có sanh, vì sanh pháp vô sở hữu.

Pháp vốn không có pháp mà vì vọng phân biệt chấp trước.

Pháp vốn không có khởi, vì không tự tại.

Pháp không có quán đãi vì hoàn toàn xả.

Pháp không có tác dụng vì không có khứ lai.

Pháp không có tự tánh vì siêu quá tất cả tự tánh.

Pháp vốn bình đẳng không sai khác vì không hí luận.

Tùy thật hành pháp gì, phát nuyện thù thắng đều thành tựu cả, nhưng trong đây không có tác giả nhẫn đến không có chút pháp bị được, vì đều quy về nơi không.

Do những nghĩa trên đây, nên Như Lai nói tất cả pháp như huyễn, như mộng, không có cao hạ. Chính đương lúc Phật dùng hoằng thệ để nhiếp hóa chúng sanh đây, cũng thiệt không có chút pháp gì có thể chấp lấy được cả.

Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là pháp môn quang minh của Chư Bồ Tát. Do pháp môn này nên được tăng trưởng bổn nguyện thù thắng. Như Mặt Trời mọc lên thì tỏa ánh sáng khắp nơi. Người tin hiểu được pháp môn này thì làm pháp quang minh cho tất cả chúng sanh.

Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu Chư Bồ Tát, trong có chánh tư duy, ngoài không tán loạn, dứt được các chướng ngại, niệm Phổ Quang Tam Muội và tin hiểu được pháp thậm thâm, thì cần nên quan sát các pháp môn này.

Như Lai biết rõ tất cả pháp, dùng môn duyên khởi mà tuyên thuyết khai thị: Duyên khởi như vậy là hư vọng không thật, tự tánh bổn tánh thảy đều không tịch. Tánh duyên khởi này cũng chẳng chân thật, dầu nó có thể làm cho chúng sanh hết tạp nhiễm được thanh tịnh, nhưng tìm khắp mười phương đều bất khả đắc vì là bất khả đắc nên không nhiếp thọ.

Vì không nhiếp thọ nên với giáo thuyết của Phật còn nên xả ly huống là những phi pháp. Nói xả ly là vì nó chẳng phải có, là vô sở thủ, không có công dụng, bổn tánh vốn thanh tịnh.

Tất cả pháp không sai khác, vì rõ biết phân biệt bổn tánh như thật. Tất cả pháp không có chỗ trụ, cũng không thể thấy, vì không có tánh riêng khác. Do đây nên tất cả pháp vốn không có chỗ trụ, không có chỗ y ỷ.

Chỉ do danh tự giả lập ra. Tất cả pháp đều không tịch, chẳng có tự tánh, vô trụ mà trụ. Vì vậy nên các pháp không có trụ xứ. Vì không nơi chỗ nên là tận, là diệt, là biến dịch.

Như Lai chỉ dùng giả danh tuyên thuyết, mật ý như vậy cần phải rõ biết, chẳng nên chấp trước là thiện cùng bất thiện. Nếu chấp thiện pháp thì cũng sẽ chấp pháp bất thiện. Vì chấp pháp bất thiện nên sanh những khổ não. Phật dùng giả danh ở nơi đây nói là khổ Thánh đế.

Do chẳng chấp trước pháp thiện và bất thiện nên những chấp thọ kia dứt diệt. Như Lai ở nơi bị thiện pháp dứt đây mà giả nói là tập Thánh đế.

Vì rõ biết được Thánh đế thứ hai, vì diệt, vì tận, vì không ức tưởng, vì nhàm lìa, quan sát vô sở hữu, vì không tưởng, không thọ, không phân biệt, Như Lai nơi đây giả nói là khổ diệt Thánh đế.

Vì rõ biết Thánh đế thứ ba, là đạo quả chỗ mong cầu, như thật ngộ nhập tất cả pháp, vượt khỏi tất cả cảnh ức tưởng phân biệt hí luận, tương ưng bát Thánh đạo, tu tập chánh kiến nhẫn đến chánh định, rõ biết Thánh đế là con đường diệt khổ. Phật dùng giả danh nói đây là đạo diệt khổ, Thánh đế thứ tư.

Chư Phật ở nơi đây lập ra: Biết khổ, dứt tập, chứng diệt và tu đạo. Đây là khổ, khổ tập, khổ diệt, và khổ diệt đạo. Khổ này vốn không có, vì theo thế tục giả danh lập ra.

Những vô minh này tất cả đều là phan duyên phân biệt, trong đây vốn vô trí. Vì vô trí nên cũng không có một chút phan duyên có thể chấp lấy được. Không có chỗ chứng, không có quang minh, không thể rõ biết, cũng bất khả đắc.

Như vậy thời trong đây sẽ có vật gì?

Tất cả đều là những pháp hư vọng bại hoại không thật không chắc. Trong đây nếu lập ra có vật chắc thật, thời có chấp thường. Nếu cho là không thời thành chấp đoạn. Do đây chẳng nên phân biệt đối với pháp khổ.

Do trí huệ nên rõ biết tự tánh của vô trí là tự tánh của khổ, vì tương ưng với vô minh. Vô minh kia cũng chẳng cùng với vật tương ưng, đã chẳng tương ưng thì nó cũng không có.

Vì chẳng tương ưng, nên vô minh chẳng phải là phân biệt cũng chẳng phải là chẳng phân biệt, chẳng tạo tác, chẳng hư hoại, cũng không tác giả, vì không thể tìm ra tác giả.

Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là Chư Bồ Tát ngộ nhập tự tánh của vô minh mà thuận với minh pháp môn. Do pháp môn này có thể bỏ rời tất cả vô minh đen tối, hiện tiền chứng đặng tùy thuận minh pháp, có thể khéo tu tập Bồ Đề phần, khéo rõ biết các Thánh đế.

Chư Bồ Tát đây có thể được thanh tịnh nơi pháp môn này, nghĩa là: Do vì bất sanh nên khổ được thanh tịnh. Vì chẳng phan duyên nên tập được thanh tịnh. Vì diệt tận nên diệt được thanh tịnh.

Do tu tập nên đạo được thanh tịnh. Vì tín tâm bình đẳng nên đạo liền bình đẳng. Những pháp giả danh sai khác như vậy cần phải rõ biết. Đã rõ biết rồi thì phải dứt, phải chứng, phải tu. Đối với lời dạy của Như Lai, nếu hiểu rõ được, người đó liền biết khắp, liền dứt, liền chứng, liền tu tập.

Do đây nên bậc Thánh rõ biết như vậy rồi, đối với tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, bèn được an trụ nơi pháp môn Tứ Đế.

Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp không có phân biệt, không có tăng trưởng, cũng chẳng tích tập. Vì bậc Thánh khéo rõ biết đúng như thật, nên chẳng phân biệt, chẳng hí luận, chẳng bỏ, chẳng lấy, mà thấy được như thật.

Do đạo đế đoạn trừ, nên đối với những thiện pháp còn chẳng phân biệt, không hí luận, huống là pháp bất thiện. Do tương ưng với vô phân biệt nên cũng chẳng trụ nơi dứt pháp và dứt phi pháp. Đã hoàn toàn dứt thời không còn chấp pháp và phi pháp.

Bậc này có thể rõ biết pháp chấp là hư vọng, pháp hư vọng đây trống rỗng vô sở hữu. Như trên đây là môn đế lý chứng nhập của những bậc ấy. Do môn này, nên chẳng tham ái, chẳng sân hận.

Chứng được viên mãn đức xả, dứt được những kiết sử, an trụ chánh đạo đến bờ kia, chứng pháp tánh nhưng không xuất không nhập.

Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay ông phải quan sát bổn tánh của tất cả pháp đều không, tự tánh tịch tịnh không có tác giả. Tất cả pháp đều chẳng thật, tương ưng với kiết sử.

Trong pháp không tự tánh đó chẳng nên chấp trước, lại cũng chẳng nên rời ngoài tự tánh và chẳng phải tự tánh mà có niệm phân biệt. Đã rõ biết được chân duyên thanh tịnh, thì với tất cả pháp duyên sanh chẳng nên hí luận.

Duyên sanh kia vốn không tự tánh rốt ráo thanh tịnh, chân duyên đó chẳng tương ưng lẫn nhau. Các pháp xoay vần, trong đó không có sở tác, không có sở hành, không có sự nghiệp. Vì tất cả pháp đối với nhau là không, nên không có tự tánh, không sở y, không sở trụ.

Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trong diệu pháp này ông cần phải ngộ nhập. Được như vậy thời có thể tăng trưởng không bị tổn hoại, được pháp môn thanh tịnh phổ biến quang minh.

Do nhiếp thọ nên được thanh tịnh. Vì không hí luận nên thành quang minh. Vì lìa kiết sử không chỗ chấp trước nên được xuất ly.

Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp chỉ có danh tướng để khai thị tuyên thuyết. Danh là tất cả uẩn chẳng phải sắc. Tướng là những sắc pháp do Tứ Đại tạo thành. Danh tướng như vậy, tất cả đều là hư vọng chẳng chân thật.

Vì chúng sanh điên đảo nên có chấp trước: Hoặc chấp sắc là ngã, sắc là ngã sở. Vì phân biệt nơi tướng mà có tên gọi, có chỉ bày, có tuyên thuyết. Hai thứ danh sắc như vậy đều chẳng thật.

Tất cả đều là những pháp biến hoại hư vọng, như huyễn, như mộng. Thể của sắc chẳng bền chắc như cảnh chiêm bao, nhẫn đến bốn uẩn cũng đều chẳng thật.

Tất cả chỉ là văn tự thi thiết của thế tục thôi. Quan sát như vậy, lúc đã biết rõ, thì chẳng thấy có khổ. Vì không phan duyên nên tâm vô sở hữu. Vì tương ưng với thật đế nên không phan duyên.

Vì vô sở hữu nên đâu có gì tương ưng với phan duyên kia. Do đây nên đối với cảnh giới Niết Bàn được bặt tưởng và dứt sở tri.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần