Phật Thuyết Kinh Thuần đà Chân đà La Sở Vấn Như Lai Tam Muội - Phần Ba
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Chi Lâu Câu Sấm, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH
THUẦN CHÂN ĐÀ LA SỞ VẤN
NHƯ LAI TAM MUỘI
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư
Chi Lâu Câu Sấm, Đời Hậu Hán
PHẦN BA
Bấy giờ Chư Thiên và tám vạn bốn ngàn người đều phát tâm vô thượng bồ đề, một vạn hai ngàn Bồ Tát pháp nhẫn vô sinh.
Bồ Tát Đề Vô Ly thưa: Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nghe Kinh này rồi đọc tụng, thọ trì, khen ngợi, phụng thờ thì sẽ được bao nhiêu pháp công đức?
Đức Phật dạy: Sẽ được tám công đức.
1. Có lòng tin kiên cố, không khác gì Bồ Tát.
2. Đích thân đem công đức ban bố cho người để họ tăng trưởng lợi ích mà lòng không bao giờ hối hận.
3. Nuôi tâm từ bi vô lượng, đem giáo pháp chiếu soi vào mọi người.
4. Vì pháp nên học hỏi không bao giờ nhàm chán, giống như biển cả luôn đón nhận các dòng nước.
5. Muốn hộ trì chánh pháp.
6. Tự trưởng dưỡng bằng công đức của giáo pháp. Mặc dù thân chết nhưng sắc tướng vẫn đẹp gấp bội.
7. Thể nhập vào các phước công đức, đầy đủ nguyện xưa, được Chư Phật ủng hộ.
8. Thu phục quân ma, xa lìa mọi sợ hãi.
Bồ Tát nhờ tám sự việc này, sau khi Như Lai diệt độ sẽ được các pháp công đức.
Khi ấy, đại địa ở tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, tất cả đất đai đều bằng phẳng như lòng bàn tay. Núi non, đất liền, sông biển, rạch ngòi, khe hố đều thấy giống như đất ở trong nước, những loài trong nước đều không thấy điều này. Cây cối khô héo đã trăm năm, nay đều trổ rất nhiều hoa.
Ở chỗ Đức Phật, những cánh hoa ấy đều chỉa ra nghiêng về phía Ngài. Những cây tốt tươi khác cũng như vậy. Mặt đất mọc ra hoa sen lớn như bánh xe, có vô số màu sắc và ánh sáng chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới. Từ dưới nhìn lên chẳng thấy gì cả, chỉ nghe tiếng của âm nhạc rất hay.
Khi ấy, từ núi Băng, núi Hương, cây ấy tỏa ra mùi thơm thấu khắp mọi nơi. Hoa ấy cũng từ đất hiện ra, đến rải trên chỗ Đức Phật, đầy tràn nơi mặt đất ngập cả lối đi.
Cây Phật đang ngồi cũng trổ hoa, có tiếng nhạc như nhạc trời, phía trên Đức Phật có ba mươi vạn dặm lọng hoa bằng châu báu, che kín tam thiên đại thiên thế giới.
Tôn Giả Xá Lợi Phất quỳ thẳng chắp tay: Bạch Thế Tôn! Vì nguyên nhân gì mà hiện ra những điềm lành này?
Đức Phật dạy Tôn Giả Xá Lợi Phất: Có Vua tên Thuần Chân Đà La ở núi Hương, cùng vô số trăm ngàn Thuần Chân Đà La, vô số Kiền Đà La, vô số Chư Thiên cùng nhau đến đây nên có điềm lành ấy.
Đức Phật nói chưa dứt lời thì thấy Thuần Chân Đà La với tám vạn bốn ngàn kỹ nhạc và vô số người cùng nhau đi đến. Hoa từ hư không rơi xuống giống như mưa từ trên cao đổ xuống. Tất cả những người đến cung kính, lễ Phật rồi đi nhiễu ba vòng rồi đứng ra phía trước. Vua Thuần Chân Đà La cầm đàn lưu ly.
Vì sao?
Vì đó là bản nguyện. Bốn phía có bốn vạn hai ngàn kỹ nhạc. Thuần Chân Đà La đứng ở giữa, đồng thời đánh đàn. Tiếng đàn vang khắp tam thiên đại thiên thế giới. Các kỹ nhạc của các Cõi Trời thuộc Dục Giới đánh nghe không hay bằng tiếng đàn này.
Vì sao?
Vì bị tiếng đàn này lấn át nên các vị trời nơi Cõi Dục, Cõi Sắc không sánh bằng.
Khi Thuần Chân Đà La đến chỗ Phật đánh đàn thì các cây cối, núi lớn, núi Bang, núi Mục chân lân tự nhiên lay động nhè nhẹ giống như múa và tất cả đều cung kính hướng về Đức Phật, như là lễ bái. Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, tất cả đều tôn trọng cung kính. Các vị Tỳ Kheo và Bồ Tát mới phát tâm, người trong chúng hội, Trời, Rồng đang ngồi cũng đều reo hò vui mừng, muốn đứng dậy múa.
Bồ Tát Đề Vô Ly hỏi: Thanh Văn đã lìa các dục, đã chứng đắc tám duy vụ thiền, thấy rõ bốn đế, nay sao lại múa?
Các Thanh Văn trả lời: Chúng tôi không tự chủ được với tiếng đàn ấy. Đang ngồi mà nghe tiếng đàn thì không sao chịu nổi và cũng không thể kiềm chế tâm mình cho yên ổn.
Bồ Tát Đề Vô Ly hỏi Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp: Thưa Tôn Giả! Tôn Giả là vị tuổi cao đức trọng, biết nhàm chán, tự giữ đúng theo giới luật, được Chư Thiên và người kính mến, tôn trọng, vì sao không thể kiềm chế tâm mà lại múa giống như trẻ con vậy?
Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp trả lời: Ví như một cơn gió lớn nổi lên thì cây cối dù to như cây đại thụ cũng không tự kiềm chế được.
Vì sao?
Vì tôi không tự chủ được trước tiếng đàn của Vua Thuần Chân Đà La, ví như khi gió lớn nổi lên. Đó là nguyên do khiến chúng tôi không tự giữ tâm mình được. Hôm nay mới biết điều của Thượng nhân làm, công đức ấy không thể sánh bằng. Các Thanh Văn đều bị tiếng đàn kia che lấp.
Bồ Tát Đề Vô Ly nói với Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp: Thấy việc làm của các vị A Duy Việt Trí, nghe tiếng đàn ấy không vị nào rung động. Người có trí nghe vậy thì rối tâm nên không thể phát tâm vô thượng bồ đề.
Tất cả thần lực của Thanh Văn đều bị tiếng đàn ấy che lấp, nhưng âm thanh ấy không thể nào làm lay động các vị Ma Ha Diễn. Tất cả tám vạn bốn ngàn âm điệu kỹ nhạc của Thuần Chân Đà La được oai thần Phật đón nhận, làm cho phước đức nơi bổn nguyện của ông ta được thành tựu.
Cac tiếng nhạc ấy ai cũng nghe và họ nói: Các pháp bình đẳng và đều giải thoát. Thượng trung hạ đều thanh tịnh hoàn toàn như nhau. Với tất cả mọi người không chấp về người. Quá khứ, vị lai, hiện tại cũng đều như vậy. Nhưng tiếng nhạc được nghe đó, hiểu rõ ra là không sở hữu. Các pháp, tất cả mọi người và âm thanh cũng đều như vậy.
Tất cả cõi giống như một cõi. Vì đã đồng đẳng nên không có cõi khác.
Hiểu rõ không có sở hữu. Vì đồng đẳng nên nói các cõi không sinh, cũng không trưởng thành. Cho nên hoàn toàn không có thức mà tự nhiên. Các sở hữu không sở hữu mà tự nhiên.
Không thể đắc ngoại hành, không đắc nội hành. Tuệ vốn không giống với pháp, nhưng chữ và pháp cũng không có sở hữu, nên cái tên cũng như vậy.
Biết danh sắc không sở hữu, hành đã không chấp trước thì quá khứ an trụ không cùng cực.
Đã được nghe pháp căn bản diệt tận không có sở hữu, không có chỗ đến, cũng không có chỗ trụ.
Những gì chấp trước chỉ có danh tự, nhưng khi đã biết rõ danh tự thì danh tự và pháp đều bình đẳng như nhau.
Tâm bình đẳng, vì bình đẳng nên không có sở hữu. Nó vốn có lay động nhưng không biết nhau. Dù tâm có đối tượng và suy nghĩ nhưng không có chỗ sinh. Với trí tuệ biết rõ như vậy tức là thể nhập vào pháp.
Các căn đã đoạn trừ bình đẳng, pháp trước và sau bình đẳng.
Biết ba đời bình đẳng thì trí tuệ thể nhập vô số.
Con người bị danh sắc trói buộc, đó là do con người tạo ra. Từ xưa đến nay, từ sinh đến lão nó đã không có. Đã biết do nhân duyên thì còn phải diệt. Nếu nói rằng có ngã, có nhân, đó là ngược lại với căn bản.
Chốn trụ của ngã là bình đẳng nên không có chỗ trụ. Các pháp cũng không có chỗ trụ. Biết trụ không có chỗ trụ, đó là nghe và tin một cách hoan hỷ.
Ví như mưa thì có sấm chớp, đó là cách tự nhiên trên trời. Tất cả các pháp giống như ngã nên nói rằng tự nhiên.
Ngã và nhân là tự nhiên không. Đã biết như vậy thì thể nhập vào dấu ấn Đà La Ni, biết rõ các cửa đã được mở tung. Vì tướng đồng với tướng nên không có tướng của pháp và không có không, không có hy vọng dùng chữ. Cho nên khác với pháp mà có thượng trung hạ. Chữ nó không tự biết dùng khác bởi vì không thể thấy.
Tâm ấy từ xưa nay hễ có nguồn gốc là tương tục, đã biết các pháp không sở hữu vì đoạn trừ bổn tế, đã đoạn trừ bản tế thì tất cả có hành động, đã biết bản tế bình đẳng thì đó là từ bi. Lòng từ bi thanh tịnh thì bình đẳng với khổ vui, không mừng không buồn. Đó là bậc thượng nhân đã thể nhập vào bản tế.
Pháp học tịch tĩnh lại càng tịch tĩnh, dù nói hay không nói thì pháp đó không tăng giảm. Cho nên không mong cầu tịch tĩnh.
Tiếng giữa hư không không thể nào nắm bắt được, chỉ nghe mà không thể nói. Nếu có chỗ nghe, chỗ nói thì đều không thành thật.
Khi nghe âm thanh ấy thì tám ngàn Bồ Tát chứng đắc pháp nhẫn vô sinh.
Bồ Tát Đề Vô Ly thưa Phật: Âm thanh khen ngợi ấy từ đâu phát sinh?
Đức Phật dạy: Vua Thuần Chân Đà La làm ra. Như vừa nói ra thì lập tức ghi nhận lời nói.
Đức Phật hỏi Thuần Chân Đà La: Âm thanh khen ngợi ấy từ đâu phát ra?
Thuần Chân Đà La thưa: Do tiếng người phát ra.
Hỏi: Tất cả tiếng người từ đâu phát ra?
Từ hư không phát ra sao?
Bồ Tát Đề Vô Ly nói: Này Thuần Chân Đà La! Tất cả tiếng người không phải từ ý phát ra.
Thuần Chân Đà La hỏi Bồ Tát Đề Vô Ly: Tiếng ấy từ thân phát ra hay từ tâm phát ra?
Bồ Tát Đề Vô Ly nói: Không phải do thân hay do tâm phát ra.
Vì sao?
Vì thân không thường trụ, giống như cây cỏ không sống mãi, như tường vách không tồn tại lâu dài, có lúc nghiêng đổ. Còn tâm thì không hình tướng, không thể thấy, không thể nghe, không thể nói, nó như huyễn.
Thuần Chân Đà La hỏi Bồ Tát Đề Vô Ly: Nếu không phải thân, không phải tâm thì tiếng ấy do đâu phát ra?
Bồ Tát Đề Vô Ly trả lời: Tất cả do niệm tự nhiên mà có âm thanh.
Thuần Chân Đà La hỏi: Nếu Bồ Tát nói âm thanh từ nơi miệng mà có thì nay âm thanh khen ngợi của tôi do hư không mà phát ra ư?
Do đó, các âm thanh không lìa hư không?
Thuần Chân Đà La Nói: Nếu Bồ Tát muốn biết rằng âm thanh đều do hư không mà tự nhiên có tiếng, thì chỉ nghe âm thanh chứ không thể thấy, vì nó liền diệt. Cái diệt ấy cũng là không. Cho nên nói là tự nhiên.
Các pháp sở dĩ bình đẳng vì bình đẳng như hư không. Dù có nói được hay không nói cũng đều bình đẳng cho nên nói bình đẳng như hư không.
Tất cả pháp chỉ có thể nghe mà không thể thay. Pháp mà được nghe ấy đối với sự nghe thì không thấy pháp ấy. Nếu âm thanh của pháp không thấy được thì âm thanh ấy không biết pháp.
Các pháp không hay biết, sở dĩ nghe được là nhờ dùng phương tiện thiện xảo. Nếu như không được nghe thì dùng phương tiện thiện xảo để biết, đối với pháp không mong cầu gì cả. Không mong cầu cho nên cần phải có năng lực kiên cố, không yếu mà lại mạnh mẽ, không ai có thể dứt đoạn.
Không bị dứt đoạn thì không có sinh, không sinh thì không bị lệ thuộc, không bị lệ thuộc thì nhẹ nhàng, nhẹ nhàng thì thanh tịnh, thanh tịnh thì không còn cấu bẩn, không cấu bẩn thì sáng suốt càng sáng suốt. Sáng suốt đó là gốc của tâm, gốc của tâm là lỗi lầm.
Tội lỗi ấy hết rồi thì không còn vọng tưởng. Các vọng tưởng không còn thì ngay xứ ấy từ từ chuyển lên. Chuyển lên là nhẫn nhục của Bồ Tát. Đạt nhẫn rồi thì không có đối tượng để nhẫn. Nhẫn về không cũng như nhẫn về người.
Vì sao?
Vì cái không không lìa người.
Thế nào là không?
Người là không.
Nhẫn với vô tưởng và nhẫn với hữu tưởng.
Vì sao?
Vì tưởng là tự nhiên nên vô tưởng. Nên nhẫn vô nguyện cũng như nhẫn hữu nguyện.
Vì sao?
Vì nguyện và tưởng là tự nhiên, không có gốc của nguyện.
Các pháp Nê Hoàn cũng là nhẫn sinh tử. Cho nên sinh tử ví như huyễn mộng.
Bồ Tát chứng đắc nhẫn thì không còn nghi ngờ về hữu và vô, chắc chắn biết rõ tất cả chúng sinh. Nhờ được nhẫn nên biết rõ tất cả pháp không đến không đi, biết rõ các pháp đều trụ. Các pháp đều trụ thì biết tất cả chúng sinh cũng đều trụ. Ai đã thể nhập vào pháp ấy thì được vô sinh pháp nhẫn. Chỉ có âm thanh pháp nhẫn ấy không thể nói năng, vốn nó không thể nói. Đức Phật là Đấng Chí Tôn, dù không nói pháp nhưng khiến mọi người đều hiểu rõ.
Bồ Tát Đề Vô Ly bạch Phật: Lành thay! Lời nói của Thuần Chân Đà La rất vi diệu, làm hiểu rõ pháp sâu xa, chứng đắc nhẫn, được mọi người tôn quý.
Tất cả nhẫn đã thể nhập được ấy rất là sâu rộng.
Và thưa Phật: Vua ấy tạo bao nhiêu công đức với Đức Phật mà muốn gì cũng đều được tự tại như vậy?
Đức Phật dạy Bồ Tát Đề Vô Ly: Ông nên biết! Sông Hằng có vô số cát, cứ lấy một hạt cát làm thành một Cõi Phật, đếm hết số lượng tinh tú trong đó thì còn tính đếm được. Nhưng số lượng công đức cúng dường Phật của Thuần Chân Đà La thì không thể nào tính đếm được.
Bồ Tát Đề Vô Ly hỏi Thuần Chân Đà La: Cúng dường Phật nhiều quá như vậy, công đức tụ hội cao vời vợi, vậy sao không mau thành Phật?
Thuần Chân Đà La Nói: Bồ Tát nhờ mười việc không nhàm chán.
Mười việc đó là gì?
1. Cúng dường Như Lai không nhàm chán.
2. Tạo công đức không nhàm chán.
3. Học hỏi giáo pháp không nhàm chán.
4. Với năm thiền chi của bốn bậc thiền, biết không nhàm chán.
5. Thấy các pháp không nhàm chán.
6. Muốn giảng dạy rộng rãi về giáo pháp không nhàm chán.
7. Muốn chỉ dạy mọi người không nhàm chán.
8. Luôn luôn hộ trì chánh pháp không nhàm chán.
9. Muốn đầy đủ Ba la mật không nhàm chán.
10. Muốn cảm hóa, dìu dắt, giúp đỡ người không nhàm chán.
Đó là mười việc không nhàm chán của Bồ Tát.
Thuần Chân Đà La thưa: Con nghe Đại Bồ Tát có tam muội tên Bảo Như Lai, ai được tam muội ấy thì đều có đầy đủ các thứ quý báu. Nếu có ai hỏi pháp thì vị ấy giảng nói tự tại.
Phật dạy: Ông hãy lắng nghe ta nói.
Thuần Chân Đà La thưa: Xin vâng! Con muốn được nghe.
Phật dạy: Bồ Tát không đoạn mất Phật, Pháp, Tăng, đó là ba sự phát tâm, nó có tám mươi pháp báu.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Phẩm Sáu - Quán Bốn Oai Nghi - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Bờ Kia Bờ Này
Phật Thuyết Kinh Hoằng đạo Quảng Hiển Tam Muội - Phẩm Mười Hai - Phẩm Chúc Lụy Pháp Tạng
Phật Thuyết Kinh Thiện Cung Kính
Phật Thuyết Kinh Thuần đà Chân đà La Sở Vấn Như Lai Tam Muội - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Phạm Ma Nan Quốc Vương
Phật Thuyết Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương - Phẩm Hai Mươi Sáu - Phẩm Xả Thân
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Bố Tát - Phần Hai - Phần Một