Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Bảy - Pháp Hội Phú Lâu Na - Phẩm Thứ Bốn - Phẩm Cụ Thiện Căn - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ MƯỜI BẢY

PHÁP HỘI PHÚ LÂU NA  

PHẨM THỨ BỐN

PHẨM CỤ THIỆN CĂN  

PHẦN MỘT  

Đức Phật bảo Huệ Mạng Phú Lâu Na: Đại Bồ Tát phát tâm đại thừa thường phải tu tập thân cận bốn pháp thì có thể nhiếp hết tất cả pháp lành cũng có thể đầy đủ cả căn lành.

Những gì là bốn pháp?

Này Phú Lâu Na! Thiện nam, thiện nữ phát tâm đại thừa gần gũi tu tập thật hành pháp nhẫn nhục. Lúc tu hành pháp nhẫn nhục như vậy, do vì như tâm bình đẳng thì được bình đẳng Ba la mật, cũng được tất cả chúng sanh bình đẳng Ba la mật.

Bồ Tát ấy được tâm bình đẳng Ba la mật, trí bình đẳng Ba la mật, hoặc đi hoặc đứng hoặc ngồi hoặc nằm hoặc thức hoặc ngủ, bấy giờ có người mang bình phẩn hoặc bình độc, bình nước sôi, hoặc các thứ rác rưởi, hoặc than lửa tro nóng.

Hoặc cứt đái đến đổ trút lên đầu lên thân, đối với sự gia hại này, Bồ Tát chẳng nên sân hận mà tâm phải tán loạn, chẳng nên tự nói tôi có tội gì, cũng chẳng dùng ác tâm nhìn họ, chỉ nên nhất tâm cầu pháp tự lợi, ở nên sự đang tu tập chuyên tâm chẳng bỏ rời.

Phải điều phục tâm mình thế này: Người đó cớ chi mang các thứ ấy đổ trút lên đầu lên thân ta, thân ta chẳng vì các vật ấy mà phải đau khổ.

Phải quan sát các pháp nhân duyên như vậy: Ai mang vật đến, vật ấy đổ cho ai, vật gì đổ cho người nào. Suy ngẫm như thiệt như vậy chẳng thấy có pháp nào là người mang cho, là người lãnh thọ, cái gì là vật.

Chánh niệm quan sát suy gẫm như vậy vì nhận thấy đây kia đều bất khả đắc nên tất cả pháp cũng đều bất khả đắc đều chẳng thấy có được. Vì Bồ Tát chẳng được và chẳng thấy tất cả pháp nên chẳng sanh lòng sân hận.

Nếu lúc suy xét như trên mà vẫn còn có niệm sân hận khởi lên thì Bồ Tát lại phải chánh niệm suy xét thế này: Do chạm xúc gì khiến thân ta đau, các thứ chạm xúc ấy nó chạm xúc chỗ nào, chạm xúc nơi thân hay chạm xúc nơi tâm. Nếu nó chạm xúc nơi thân, thì thân như cỏ cây ngói đá bóng tượng không hay không biết chẳng phải đây chẳng phải kia.

Nếu nó chạm xúc nơi tâm, thì tâm không hình sắc niệm niệm sanh diệt chẳng tạm dừng chẳng phải đây chẳng phải kia, chỉ do hư vọng ghi nhớ phân biệt mà nói là khổ là vui là chẳng khổ vui, nay ta chẳng nên sanh khởi ghi nhớ phân biệt hư vọng ấy, nay ta phải quán bình đẳng thiệt tướng, ta phải tu tập việc làm của Hiền Thánh, chẳng nên theo việc làm của phàm phu.

Những gì là việc làm của Hiền Thánh, đó là xa rời giải thoát đối với các pháp, ta vì xa rời mà học chớ chẳng phải vì hòa hiệp mà học. Lòng ghi nhớ phân biệt hư vọng ấy đều là hòa hiệp. Là ai hòa hiệp, là tham dục sân hận ngu si hòa hiệp.

Sao gọi là tham dục sân hận ngu si hòa hiệp, do vì thân si, thân kiến si, vì tham thân kiến nên lúc thân bị khổ thì giận thù người kia đây gọi là sân hận hòa hiệp, có người vì thân kiến si vì tham thân kiến, vì chẳng vừa ý mà sân hận người kia đây gọi là ngu si hòa hiệp.

Nếu người bị ba độc trói buộc mà hoặc phát khởi những tội nghiệp như vậy thì Chư Phật chẳng cứu được huống là người khác, ta phải khéo quán các pháp nhân duyên, quán các pháp không. Bồ Tát tuỳ thuận quán các pháp nhân duyên như vậy chẳng thấy pháp có, ai hại ai chịu dùng vật gì để hại.

Bấy giờ Bồ Tát nên suy nghĩ rằng: Tất cả các pháp từ nhiều duyên mà sanh vốn không tự tánh quyết định bất khả đắc, tại sao ta lại ở trong pháp hư vọng vô sở đắc mà có được pháp tác nghiệp để sanh sân hận phát khởi hành nghiệp.

Nay ta phải sanh lòng không sân hận mà tu hành pháp vô tác vô khởi vô sanh, ta phải quán pháp không, chẳng chìu theo tâm ý chấp kiến.

Nay ta phải quán pháp bất tác bất khởi vô sanh, chẳng nên y chỉ pháp tác khởi. Ta phải suy gẫm các pháp đúng như thiệt. Nay ta chẳng nên ở trong hư vọng vô sở hữu này mà cưỡng khởi tác, gì là cưỡng khởi tác, đó là sân hận.

Tại sao, vì y chỉ nơi pháp thì có sân hận, nay ở trong các pháp thiệt tướng cứu cánh không, không có pháp bổn thể để có y chỉ được.

Bồ Tát suy gẫm các pháp như vậy thì tâm vắng bặt chẳng khởi sân hận. Lại nữa, lúc Bồ Tát đi đứng nằm ngồi, hoặc lúc thức lúc ngủ, bấy giờ có người đến mang hương hoa thơm đẹp rải lên thân, hoặc đem những vòng hoa chuỗi ngọc phủ lên thân, hoặc đem y phục mịn đẹp trùm lên thân, hoặc đem phan lọng che lên trên.

Hoặc đem hương hoa châu báu Cõi Trời đắp lên thân, hoặc đem dâng các đồ uống ăn ngon ngọt, Bồ Tát đối với các sự cúng dường ấy chẳng nên ưa thích mà sanh lòng tham trước, chẳng vì sự việc ấy mà thân phụ người kia tùy thuận ý họ qua lại thăm viếng, chẳng nên thiên vị mà sanh ái trước. Bồ Tát đối với sự việc ấy nên dùng tâm bình đẳng thông đạt các pháp bình đẳng.

Phải suy nghĩ rằng: Đối với các chúng sanh ta chẳng nên sân hận, chẳng nên thương nhớ, tại sao, vì ghét thương hai thứ đều là phiền não. Nay ở đây ta chẳng nên sanh lòng thương yêu, ta phải khéo thông đạt các pháp đúng thiệt.

Ở trong các phiền não, chỗ hòa hiệp của ái duyên là tối trọng, phiền não này sâu đến xương tủy, nghĩa là ở trong pháp hay sanh kiết sử tâm ái nhiễm trước, đối với sự ái trước nếu chẳng vừa ý thì sanh sân hận. Mọi người đều tự có lòng dục nhiễm ái trước thân mình, có ai đến xâm não thì sanh sân hận.

Do đây mà biết sân hận là quả của ái nhiễm, còn tham ái là quả của người si. Nay ta phải xa rời tâm ác ái nhiễm, đối với các pháp không hề tham trước.

Ta chẳng vì tham dục mà học, chẳng vì sân hận mà học, chẳng vì ngu si mà học. Ta phải rộng học các pháp chân thiệt. Đối với các pháp tướng thì quan sát đúng như thiệt, theo đúng như lời mà tu hành như thiệt.

Chỉ nên y chỉ nghiệp báo, đối với các sự bị hại và cúng dường đều phải biết đó là duyên lành của nghiệp nhân thuở trước, vì thế nên ở trong sự tùy thuận chẳng sanh mừng thích, trong sự trái nghịch chẳng sanh sân hận, chỉ giữ lòng thanh tịnh không hề thương ghét chẳng để tâm mình theo các pháp ác tham sân si. Bồ Tát thành tựu các pháp ban đầu này thì có thể được đầy đủ tất cả công đức.

Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

Phật thường khen trí huệ

Cũng khen người trì giới

Đề cao tu nhẫn nhục

Cũng luôn ngợi Đa Văn

Phật khen làm pháp lành

Người từ tâm ái ngữ

Vì lợi ích chúng sanh

Tùy nghi khen công đức

Phật thường quở ngũ dục

Người sân hận ngu si

Ganh ghét kiêu dua vạy

Trược loạn hại chúng sanh

Lòng lười nhác giải đãi

Ngang ngỗ khó cùng nói

Bội ơn không đền đáp

Việc nhỏ giận hờn to

Kẻ tham cầu lợi dưỡng

Muốn mình được tài lợi

Chẳng muốn người khác được

Hạng này Phật chẳng khen

Nơi lợi dưỡng ít trí

Tự muốn ganh người được

Khổ sầu thấy người được

Hạng này Phật chẳng khen

Vì cầu được lợi dưỡng

Chuyển đổi các oai nghi

Cách sống ấy chẳng sạch

Rời rất xa Phật Pháp

Người chẳng chuyên hành đạo

Có các lỗi lầm ấy

Những ác nghiệp đạo ấy

Không một việc đáng khen

Chẳng dứt ác ngã kiến

Tâm tham ái thì nhiều

Vì tâm nhiều tham ái

Nên siêng cầu lợi dưỡng

Bồ Tát tự nghĩ rằng

Nhẫn nhục lợi chúng sanh

Xô dẹp tâm cương cường

Mau được thành Phật Đạo

Tôi phải tu tâm từ

Nhẫn nhục thương chúng sanh

Mà biết các pháp không

Do duyên sanh vô ngã

Cớ sao có các pháp

Pháp ấy khởi nơi tâm

Vọng tưởng sanh sân hận

Chẳng nhớ nó liền không

Vọng tưởng sanh Tam Giới

Thân nối nhau chẳng tuyệt

Chẳng vọng tưởng phân biệt

Thì không có lỗi ấy

Thường suy xét các pháp

Biết nó từ duyên sanh

Thường quán các pháp không

Mà hay độ mọi loài

Chúng sanh phá giới khổ

Bị kiêu mạn làm hại

Dạy họ pháp diệt khổ

Có nhiều lợi ích lớn

Nếu có kẻ phương Đông

Nam Tây Bắc bốn hướng

Tay cầm bình cứt đái

Đổ trút lên đầu tôi

Tôi chẳng sanh lòng giận

Ai hại ai chịu lấy

Cái gì gọi là ta

Siêng tinh tấn quan sát

Chẳng giận hờn nhìn họ

Tội gì mà hại tôi

Chỉ sanh lòng chánh niệm

Biết là nghiệp thuở trước

Từ tâm thương xót họ

Biết là nghiệp thuở trước

Nay nhận quả báo này

Trả xong chẳng gây nữa

An trụ trong Phật Đạo

Người khác không có sự

Khinh hủy làm khổ não

Đây tất là ác nghiệp

Dầu lâu mà chẳng mất

Chúng sanh tại thế gian

Luôn tạo nghiệp thiện ác

Nay tôi chịu khổ này

Nên biết do nghiệp trước

Nếu giận mắng hại họ

Sau lại thọ quả khổ

Đâu nên đem khổ hại

Mà hại lại người kia

Phải cầu pháp vô thượng

Cầu rồi dạy lại người

Độ thoát tất cả loài

Ra khỏi tất cả khổ

Nếu người đem hương hoa

Châu báu cúng dường tôi

Chẳng nên sanh lòng tham

Phải tập quán bình đẳng

Ghét thương thì trái đạo

Phải thường tu tâm xả

Nên chánh quán các pháp

Ai làm ai chịu lấy

Tất cả pháp đều không

Nội không ngoại cũng không

Không chẳng có làm chịu

Tất cả đều vô ngã

Không chẳng có tham sân

Không chẳng có phiền não

Cũng không có thanh tịnh

Rời cấu tịnh là không

Trong không chẳng phân biệt

Không chẳng có các tánh

Không thường không vô tướng

Đây là đạo thanh tịnh

Giả sử có người đến

Chặt đứt rời thân tôi

Trọn chẳng sanh lòng giận

Biết do nghiệp thuở trước

Chúng sanh gây thiện ác

Theo nghiệp tự thọ quả

Chắc đời trước tôi ác

Nay phải chịu báo khổ

Nay chịu lấy khổ báo

Quán thân như bóng tượng

Bọt nước ảo hóa mộng

Là không tất cánh không

Nếu có người thành tâm

Giúp đỡ nuôi dưỡng tôi

Phải nhớ báo ơn họ

Mà chẳng sanh lòng mừng

Cúng dường chẳng vui mừng

Mắng hại chẳng giận hờn

Mừng giận đều chướng ngại

Chẳng phải đạo chân chánh

Phải xa rời tất cả

Lòng tham ái sân hận

Thường phải tu không tịch

Dứt hết các chướng ngại

Nhẫn nhục gốc thập lực

Chư Phật thần thông nguyện

Trí vô ngại đại bi

Đều do nhẫn làm gốc

Tứ đế niệm chánh cần

Căn lực giác đạo phần

Đều dùng nhẫn làm gốc

Người trí nên tu nhẫn

Phật tại Ba La Nại

Chuyển pháp luân vô thượng

Cũng lấy nhẫn làm gốc

Chư Phật thường khen nhẫn

Các ông cũng phải tu

Không nhẫn vô sanh diệt

Các pháp tướng thường không

Thì được Phật công đức.

Lại này Phú Lâu Na! Đại Bồ Tát có thể rời lìa ngũ dục, thường thích xuất gia tâm thuận xuất gia xu hướng xuất gia chẳng ham ngũ dục. Được xuất gia rồi rời chốn ồn ào náo ở xa nơi núi rừng chẳng mất pháp lành. Bồ Tát thành tựu pháp thứ hai này thì hay đầy đủ tất cả công đức.

Đức Thế Tôn muốn sáng tỏ nghĩa này mà nói kệ rằng:

Lòng thường thích xuất gia

Mà hay thường xuất gia

Thường thích ở núi rừng

Chỗ tăng ích công đức

Ở tại chỗ rảnh vắng

Thì lìa năm dục lạc

Nơi ấy không ồn náo

Không mất duyên pháp lành

Không phải bận chuyện trò

Đến lui thăm viếng nhau

Ưa rảnh rang vắng vẻ

Được Chư Phật khen ngợi

Vì thế Chư Bồ Tát

Phải thường ở rảnh vắng

Chớ tham ưa thành thị

Chỗ sanh tâm lợi dưỡng

Nếu được lợi thì mừng

Nếu mất sanh lo buồn

Người này dầu cúng Phật

Chẳng gọi là cúng dường

Muốn trừ các lỗi này

Phải thường lìa lợi dưỡng

Xa lìa ở rảnh vắng

Tu tập các pháp không.

Lại này Phú Lâu Na! Bồ Tát thường học cầu pháp. Cầu được rồi đọc tụng. Đó là cầu tịnh giới các pháp Đầu Đà tế hạnh, chẳng cầu những pháp đa dục không chán đủ. Cầu pháp diệt tham dục, chẳng cầu thêm tham dục.

Cầu pháp phá sân chẳng thêm sân. Cầu dứt ngu si chẳng thêm ngu si. Cầu trừ kiêu mạn chẳng thêm kiêu mạn. Cầu phá ngã mạn chẳng thêm ngã mạn. Cầu hết ngã ngã sở chẳng thêm ngã ngã sở. Cầu pháp vô ngã chẳng y chỉ ngã nhân chúng sanh thọ mạng.

Thường cầu pháp hay được trí huệ lớn chẳng cầu pháp thối thất đại trí huệ. Thường cầu pháp để được trí huệ vô thượng chẳng cầu pháp để được trí huệ nhỏ. Cầu pháp được tất cả công đức chẳng cầu pháp chẳng đủ công đức.

Cầu các pháp như vậy, được rồi tư duy cháng quán làm đúng theo lời đem dạy lại người, chẳng cầu thế lợi danh tiếng khen ngợi, siêng dạy các chúng sanh cho họ an trụ trong pháp ấy. Bồ Tát thành tựu pháp thứ ba này thì có thể được đầy đủ tất cả công đức.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Bồ Tát thích xuất gia

Trì giới hạnh Đầu Đà

Do đó sanh trí huệ

Mưa trí thêm các dòng

Được pháp thâm tịnh rồi

Chánh niệm suy ý nghĩa

Ở trong các pháp ấy

Làm được đúng như lời

Thường dùng tâm thanh tịnh

Giảng rộng lại cho người

Lợi ích các chúng sanh

Lòng không chút hy vọng

Được mùi vị công đức

Tụ ở trong pháp ấy

Cũng khiến người được ở

Do đây tăng Phật Pháp

Nếu trong vô lượng kiếp

Tập họp các công đức

Đều khiến hiện ra trước

Nhiếp vào Bồ Tát đạo

Nên phải cầu thâm pháp

Được Chư Phật khen ngợi

Thường nói cho chúng sanh

Do đây sanh công đức.

Này Phú Lâu Na! Đại Bồ Tát an trụ trong pháp trì giới Đầu Đà thì có thể đầy đủ thiện căn công đức.

Này Phú Lâu Na! Quá khứ lâu xa vô lượng vô biên số kiếp, có Phật Hiệu Di Lâu Kiện Đà Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thọ sáu ngàn tuổi, một hội Thuyết pháp có tám mươi ức Tỳ Kheo đắc quả A La Hán, sau khi Phật nhập diệt, pháp trụ năm trăm năm. Phật ấy nhập Niết Bàn rồi, trong bảy ngày, các đại đệ tử cũng đều nhập diệt theo Phật.

Này Phú Lâu Na! Đức Phật Di Lâu Kiện Đà xuất thế cũng đủ năm thứ trược như ta hiện nay vậy.

Sau khi Chư Đại A La Hán đệ tử Phật diệt độ, có nhiều chúng sanh nghĩ rằng: Trong pháp Sa Môn an ổn khoái lạc sao ta chẳng cùng xuất gia. Họ nghĩ như vậy rồi đều cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục xuất gia.

Sau khi xuất gia họ chỉ làm ba việc: Một là thường qua lại nhà bạch y, hai chỉ tham cầu lợi dưỡng để sinh sống, ba là chuyên lo mập béo mà không tu phước huệ. Họ chỉ làm ba việc ấy mà chẳng tu hạnh gì khác.

Sau đó trăm năm, Chư Đại đệ tử đã diệt độ cả, các Tỳ Kheo ấy phần đông cùng hòa hiệp với người bạch y, đa số phế bỏ các Kinh thâm diệu trì giới Đầu Đà các tế hạnh của Phật dạy, họ chẳng còn đọc tụng nữa.

Lúc bấy giờ chúng Tỳ Kheo thích ngũ dục ham ăn uống. Quốc Vương thuở ấy chỉ có một Thái Tử tên Đà Ma Thi Lợi rất được Vua quí trọng.

Lúc ở thanh vắng, Thái Tử nghĩ rằng: Đức Phật Di Lâu Kiện Đà đắc pháp gì thành Phật, sao nay các đệ tử đều phóng dật làm giống các bạch y.

Lúc suy tư và nghĩ vậy, có Thiên Thần đến ẩn thân mà bảo Thái Tử rằng: Đức Phật Di Lâu Kiện Đà đắc pháp thâm diệu thanh tịnh quyết định.

Nghe Thiên Thần nói, Thái Tử liền hỏi: Đức Phật Di Lâu Kiện Đà đắc pháp thâm diệu thanh tịnh quyết định, pháp ấy thế nào?

Thiên Thần đáp: Pháp ấy không sắc, không thọ tưởng hành thức, không ấm giới nhật, không có ngũ dục cũng không có dục tâm. Phật đắc pháp ấy và dạy chúng sanh pháp ấy.

Thái Tử lại hỏi: Tôi có được nghe pháp ấy để được hiểu biết thật hành chăng?

Thiên Thần bảo: Ngài siêng tu tinh tấn thì được đó không khó.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần