Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Hai - Pháp Hội Bồ Tát Tạng - Phẩm Thứ Mười - Phẩm Tĩnh Lự Ba La Mật - Phần một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ MƯỜI HAI
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
PHẨM THỨ MƯỜI
TĨNH LỰ BA LA MẬT
PHẦN MỘT
Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng: Thế nào gọi là Đại Bồ Tát tinh cần tu học Tĩnh Lự Ba la mật vì chúng sanh mà thật hành Bồ Tát hạnh?
Này Xá Lợi Phất! Vì chúng sanh mà Đại Bồ Tát siêng tu bốn thứ Tĩnh Lự.
Những gì là bốn?
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát vì ly dục ly pháp ác bất thiện nên có tầm có từ ly sanh hỉ lạc. Đây gọi là Bồ Tát an trụ Tĩnh Lự thứ nhất.
Lại này Xá Lợi Phất! Vì Đại Bồ Tát diệt tầm và từ nên nội tịnh tâm nhất không tầm. Không từ định sanh hỉ lạc. Đây gọi là Bồ Tát an trụ Tĩnh Lự thứ hai.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát vì ly hỉ nên an trụ nơi xả, chánh niệm chánh tri, thân chánh thọ lạc được các Thánh nói, có xả có niệm, an trụ nơi lạc ly hỉ. Đây gọi là Bồ Tát an trụ Tĩnh Lự thứ ba.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát vì dứt lạc nên dứt khổ làm trước và mất ưu hỉ, bất khổ bất lạc xả niệm thanh tịnh. Đây gọi là Bồ Tát an trụ Tĩnh Lự thứ tư.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát ở Tĩnh Lự ấy định tâm thanh bạch không có uế trược rời lìa các tùy phiền não, chẳng xả Tĩnh Lự mà có thể phát khởi tất cả công việc của Tĩnh Lự. Đây gọi là Đại Bồ Tát vì y Tĩnh Lự Ba la mật mà siêng tu bốn thứ Tĩnh Lự.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là công việc Tĩnh Lự của Đại Bồ Tát?
Đó là Bồ Tát thành tựu thần thông trí nghiệp viên mãn.
Này Xá Lợi Phất! Thế nào là Bồ Tát thần thông?
Lấy những gì mà làm trí nghiệp?
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thành tựu thông trí đủ có năm thứ: Thiên nhãn tác chứng trí thông, thiên nhĩ tác chứng trí thông, tha tâm trí tác chứng trí thông, túc trụ ức niệm tác chứng trí thông, như ý túc sai biệt tác chứng trí thông. Đây gọi là năm thứ thần thông của Đại Bồ Tát. Ở trong đó Bồ Tát thành tựu đầy đủ trí nghiệp viên mãn.
Này Xá Lợi Phất! Vì Đại Bồ Tát tu hành Tĩnh Lự Ba la mật nên được thiên nhãn trí nghiệp viên mãn ấy. Định tâm như vậy, thanh tịnh minh bạch không trược uế rời tùy phiền não, vì thế nên ở nơi các loài hữu tình hoặc tử hoặc sanh tác chứng trí thần thông, tâm ấy khéo đến.
Đại Bồ Tát thiên nhãn thanh tịnh sáng suốt chiếu rõ hơn hẳn mắt người, xem thấy các hữu tình hoặc tử hoặc sanh sắc đẹp sắc xấu loài lành loài ác hoặc liệt hoặc thắng, tùy các chúng sanh do nghiệp chứa họp đều biết rõ cả.
Dùng tịnh thiên nhãn như vậy thấy các chúng sanh tạo thân ác hạnh, tạo ngữ ác hạnh, tạo ý ác hạnh, chê bai Hiền Thánh phát khởi tà kiến. Họ do nghiệp nhân tà kiến nên thân hư mạng chung đọa vào ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Có các chúng sanh tạo thân diệu hạnh, tạo ngữ diệu hạnh, tạo ý diệu hạnh, chẳng chê Hiền Thánh phát khởi chánh kiến. Họ do nghiệp nhân chánh kiến nên thân hư mạng chung sanh vào Cõi Trời thiện đạo.
Lại này Xá Lợi Phất! Vì Đại Bồ Tát tu hành Tĩnh Lự Ba la mật nên được thiên nhãn sáng suốt tối thắng hơn loài hữu tình được thiên nhãn, thấy suốt tất cả sắc tướng hoặc thô hoặc tế, hoặc thắng hoặc liệt, hoặc xa hoặc gần, các cảnh ấy đối trước mắt đều thấy rõ cả.
Lại này Xá Lợi Phất! Do thiên nhãn ấy nên tất cả sắc tượng có chướng ngại đến trước mắt Bồ Tát đều thấy suốt rõ ràng không có chướng ngại.
Này Xá Lợi Phất! Thiên nhãn của Bồ Tát ở trong Cõi Trời là tối thắng. Những thiên nhãn của Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Hữu Học, Vô Học, A La Hán, Độc Giác chẳng sánh được với thiên nhãn của Bồ Tát. Thiên nhãn này là do các đạo xuất ly phát sanh ra nên rất sáng rõ thấy suốt.
Trong vô lượng vô biên Thế Giới mười phương có bao nhiêu sắc tượng thô tế thắng liệt, hoặc gần hoặc xa, thiên nhãn của Bồ Tát đều thấy rõ như thiệt.
Lại ở trong vô biên vô tế Thế Giới mười phương có bao nhiêu hữu tình sanh vào tất cả loài. Trừ Vô Sắc Giới, thiên nhãn Bồ Tát đều thấy rõ như thiệt tất cả loài ấy.
Thiên nhãn Bồ Tát lại thấy biết những nghiệp nhân và quả báo của các chúng sanh. Lại thấy biết các căn và các căn nhân của chúng sanh.
Lại này Xá Lợi Phất! Vì Đại Bồ Tát tu hành Tĩnh Lự Ba la mật nên thành tựu thiên nhãn. Dùng thiên nhãn ấy có thể nhìn thấy vô lượng vô biên Quốc Độ Chư Phật mười phương công đức trang nghiêm đều đối trước mắt đều thấy hiển hiện.
Đã hiện thấy rồi, Bồ Tát thanh tịnh tu tập giới tụ đều đem hồi hướng trang nghiêm Phật Độ. Đây gọi là Đại Bồ Tát có đủ thiên nhãn an trụ Thi La viên mãn hồi hướng.
Lại này Xá Lợi Phất! Thiên nhãn Bồ Tát trong sáng hơn người như thật thấy rõ Chư Phật và Chư Bồ Tát Tăng. Đã hiện thấy rồi, tất cả Bồ Tát Tăng ấy có bao nhiêu oai nghi pháp tắc, căn niệm chánh trí, giải thoát trí, Đà La Ni, thắng trí xảo diệu, trí huệ phương tiện, thiện quyền chứng nhập, tất cả pháp hạnh thắng diệu ấy đều thấy biết như thiệt rồi cố gắng siêng tu khiến mau viên mãn.
Lại này Xá Lợi Phất! Vì Đại Bồ Tát tu hành Tĩnh Lự Ba la mật, nên được thiên nhãn thanh tịnh hơn người, vô lượng công đức tạo nên mắt ấy.
Tại sao?
Vì mắt ấy không chướng ngại, tất cả sắc tượng đều có thể thấy.
Mắt ấy không trước chấp vì với tất cả sắc tượng không chấp trước.
Mắt ấy giải thoát, vì giải thoát tất cả sự thấy phiền não.
Mắt ấy thanh tịnh vì tánh trong suốt.
Mắt ấy không y dựa, vì các cảnh giới không sở y.
Mắt ấy không thọ, vì chẳng chấp thọ phiền não tùy miên.
Mắt ấy không lòa, vì không nghi lầm.
Mắt ấy không trói buộc, vì rời pháp chướng.
Mắt ấy minh liễu, vì chứng được pháp minh.
Mắt ấy y nơi trí, vì hiện hành chẳng phải là thức.
Mắt ấy không ô nhiễm, vì không giận không si rời xa tất cả phiền não trược.
Mắt ấy tùy thuận quyết trạch phần thù thắng, vì làm gốc của các Thánh hạnh.
Mắt ấy tướng vô ngại, vì phóng thần quang nơi tất cả chúng sanh.
Mắt ấy trong sáng, vì rời tự loạn. Mắt ấy vô cấu, vì tánh sáng sạch vậy.
Lại này Xá Lợi Phất! Thiên nhãn Bồ Tát hay dẫn Phật nhãn, tánh như hư không chẳng thối thất. Thiên nhãn Bồ Tát không trước không phược, nơi tham ái và sân khuể thảy đều rời xa. Thiên nhãn Bồ Tát đi trong cảnh giới nghĩa lợi, đi khắp chánh pháp đạo trí thanh tịnh, với tất cả chúng sanh hay khéo an trụ đại bi cao rộng.
Thiên nhãn Bồ Tát đối với kẻ đến cầu xin không giận không ngại. Thiên nhãn Bồ Tát đối với người phạm giới chưa hề chê khinh. Thiên nhãn Bồ Tát đối với tội lỗi hay tùy trường hợp mà giữ gìn.
Thiên nhãn Bồ Tát với kẻ lười nhác hay sách tấn, với kẻ tâm loạn hay dạy chỉ định, với kẻ ác huệ hay ban chánh huệ, với kẻ đi đường tà hay khai thị đường chánh, với chúng sanh tín nguyện hạ liệt thì thị hiện Phật Pháp quảng đại của Như Lai.
Thiên nhãn của Bồ Tát cứu cánh thẳng đến nhất thiết chủng trí thần thông cao rộng Diệu Giác hiện tiền ngồi nơi Đạo Tràng không có thối chuyển. Đây gọi là Đại Bồ Tát vì y Tĩnh Lự Ba la mật nên được thiên nhãn thần thông tác chứng trí nghiệp viên mãn như vậy.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành Tĩnh Lự Ba la mật được thiên nhĩ tánh tác chứng trí thần thông?
Lại do những gì mà nghiệp thần thông trí đầy đủ viên mãn?
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát do tu Tĩnh Lự Ba la mật, nên được thiên nhĩ tánh nghe suốt thanh tịnh hơn hẳn tai người, với hai thứ âm thanh của nhân và phi nhân hoặc xa hoặc gần đều nghe rõ ràng.
Thiên nhĩ tánh ấy có thể nghe tất cả âm thanh trong vô lượng vô biên Thế Giới, như là âm thanh của Trời, của Rồng, của Dạ Xoa, của Càn Thát Bà, của A Tu La, của Ca Lâu La, của Khẩn Na La, của Ma Hầu La Già, của nhân phi nhân. Và cũng nghe âm thanh của Hiền Thánh thuyết pháp, của Như Lai, của Bồ Tát, của Độc Giác, của Thanh Văn.
Lại cũng nghe âm thanh của các ác đạo, âm thanh của địa ngục, của ngạ quỉ, của súc sanh. Vô lượng vô biên âm thanh như vậy, Đại Bồ Tát dùng thiên nhĩ tánh nghe suốt rõ ràng. Cho đến các trùng nhỏ như muỗi mòng ruồi kiến, những côn trùng vi tế phát ra âm thanh, thiên nhĩ tánh của Bồ Tát đều nghe rõ cả.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thiên nhĩ tánh thanh tịnh, nếu các chúng sanh do tâm duyên khởi niệm thiện ác phát sinh ngữ nghiệp đều nghe biết rõ cả.
Lại biết rõ hoặc có các nghiệp nhiếp về thiện nhân, hoặc có các nghiệp nhiếp về ác nhân. Lại có thể biết rõ hoặc ngữ nghiệp do tham chủng tử mà phát khởi sân khuể, hoặc ngữ nghiệp do sân tùy miên mà phát khởi tham dục, hoặc có ngữ nghiệp do tham sân tùy miên mà phát khởi ngu si, hoặc có ngữ nghiệp do si tùy miên mà phát khởi tham sân.
Lại biết rõ hoặc có ngữ nghiệp do tham chủng tử mà phát khởi tham dục, hoặc có ngữ nghiệp do sân chủng tử mà phát khởi sân khuể, hoặc có ngữ nghiệp do si chủng tử mà phát khởi ngu si. Tất cả như vậy tùy có ngôn ngữ phát ra âm thanh đều nghe biết rõ.
Lại có thể nghe biết rõ, hoặc có ngữ nghiệp ý giải thanh tịnh mà phương tiện nhiễm ngại, hoặc có ngữ nghiệp phương tiện thanh tịnh mà ý giải nhiễm ngại.
Thiên nhĩ Thông trí của Bồ Tát thông đạt rõ ràng, tất cả Chư Thánh, hoặc chẳng phải Thánh ở mười phương Thế Giới có bao nhiêu âm thanh đều nghe rõ cả lại hay phân biệt biết rõ chẳng hề sai lầm.
Dầu nghe biết như vậy, nhưng với âm thanh Thánh chẳng phát khởi ham ưa, với âm thanh chẳng phải Thánh chẳng sanh nhàm ghét.
Lại vì nghe biết Thánh âm nên đưọc đại từ, vì nghe biết phi Thánh âm nên được đại bi. Lại âm thanh mười phương đồng thời vang ra vô lượng Đại Bồ Tát dùng thiên nhĩ trí lực nghe biết chẳng tạp loạn đều đúng thiệt.
Tịnh thiên nhĩ của Bồ Tát nghe suốt rộng khắp, tất cả Thế Giới Quốc Độ tận mười phương mà Chư Phật Như Lai du hóa, thanh âm thuyết pháp của Chư Phật đều nghe biết rõ, nghe rồi, nghe rồi ghi nhớ chẳng quên chẳng tản, như đựng nước trong bình không tràn.
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát, chẳng phải lãnh thọ pháp âm của một Đức Phật mà chướng ngại đối với pháp âm của Phật thứ hai. Vì Đại Bồ Tát nghe pháp không hề chán nên dầu nghe có trước sau mà pháp âm được tất cả Như Lai nói, đều có thể thọ trì không hề sai lầm.
Lại thiên nhĩ Bồ Tát nghe rõ âm thanh thiện ác trong mười phương Thế Giới. Thanh âm thiện ác ấy vô lượng hoặc thời phi thời đều nghe biết như thiệt.
Thế nào gọi là thời ngữ và phi thời ngữ?
Này Xá Lợi Phất! Chư Phật Bồ Tát khéo biết thời nghi. Hoặc có lúc vì chúng nói rộng, hoặc có lúc vì chúng giảng lược. Đại Bồ Tát nghe rồi, dùng một âm thanh theo đúng thời nghi mà giảng rộng hoặc giảng lược.
Đại Bồ Tát hay biết rõ có pháp thiệt nên thọ ký nếu vì người mà nói sẽ làm não họ, do đó mà chẳng thọ ký. Hoặc có pháp thiệt chẳng nên thọ ký đó là những pháp dẫn sanh vô nghĩa, Đại Bồ Tát hay khéo tùy thuận phương tiện lợi tha, vô lượng thiện xảo tự thanh tịnh tâm mình mà bèn thọ ký.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát do tu hành Tĩnh Lự Ba la mật, nên thiên nhĩ thanh tịnh có sức nghe suốt rõ biết tướng dạng của các âm thanh. Hoặc có những âm thanh như vậy phải nên tùy hỷ lắng nghe, Bồ Tát liền lắng nghe. Hoặc có những âm thanh như vậy chẳng nên tùy hỷ lắng nghe, Bồ Tát liền chẳng lắng nghe.
Lại này Xá Lợi Phất! Lúc Đại Bồ Tát ở trong đại chúng thuyết pháp, có thính chúng nhĩ thức chẳng thanh tịnh, Bồ Tát liền dùng thần lực gia bị cho họ nghe hiểu.
Nếu các chúng sanh đối với tất cả pháp đều muốn lãnh hiểu, Bồ Tát làm cho họ được nghe pháp âm ấy. Nếu các chúng sanh chẳng muốn thì khiến chẳng nghe.
Lại này Xá Lợi Phật! Vì Đại Bồ Tát tu hành Tĩnh Lự Ba la mật đa, nên được thiên nhĩ thông trí như vậy, âm thanh được nghe vô lượng vô biên.
Lại này Xá Lợi Phất!
Thiên nhĩ tánh làm cho các pháp đều sáng sạch.
Thiên nhĩ tánh hay làm cho trí huệ tánh trong suốt.
Thiên nhĩ tánh hay làm cho Bồ Tát tự thanh tịnh.
Thiên nhĩ tánh hay làm cho chúng sanh tánh thanh tịnh.
Thiên nhĩ tánh rất giỏi thẩm sát như văn tự nói ra ngôn âm đều hay nghe biết rành rẽ lại hay ngộ nhập.
Các loài hữu tình trong lục đạo có bao nhiêu ngôn từ âm thanh sai biệt. Bồ Tát hay phát âm đồng với mỗi loài mà thuyết pháp cho họ.
Này Xá Lợi Phất! Thiên nhĩ tánh thông của Đại Bồ Tát chỉ hay thẳng đến Phật thiên nhĩ, quyết chẳng đi đến các thừa khác. Đây gọi là Đại Bồ Tát do tu hành Tĩnh Lự Ba la mật nên được thiên nhĩ tánh thần thông nghe suốt trí nghiệp viên mãn.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là Bồ Tát do tu hành Tĩnh Lự Ba la mật nên được tha tâm tác chứng trí thần thông, và những gì lại gọi tha tâm thần thông trí nghiệp viên mãn?
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát dùng tha tâm trí thông thanh tịnh sáng suốt ấy, đều có thể biết rõ vô lượng tâm tướng của tất cả hữu tình khắp Thế Giới trong mười phương. Ở các nơi chúng sanh không luận tiền tế tâm tướng. Vị lai tâm tướng, hiện tại tâm tướng, Bồ Tát đều biết rõ cả.
Này Xá Lợi Phất! Vì có đủ tha tâm trí thông như vậy, nên Đại Bồ Tát dùng quá khứ tâm trí đều có thể biết rõ tâm nhân và tâm tùy nhân của tất cả chúng sanh: Có thể biết rõ những chúng sanh ấy là nhân quảng đại sanh ra tâm nhân, là nhân Trung Phẩm sanh ra tâm nhân, là nhân hạ liệt sanh ra tâm nhân.
Lại hay biết rõ các chúng sanh ấy, hoặc có căn tương ưng thí dục giải, có căn tương ưng giới dục giải, có căn tương ưng nhẫn dục giải, có căn tương ưng tinh tấn dục giải, có căn tương ưng định dục giải, có căn tương ưng huệ dục giải. Cũng biết rõ các chúng sanh hoặc có căn từ hạnh, có căn bi hạnh, có căn hỷ hạnh, có căn xả hạnh.
Cũng biết rõ các chúng sanh hoặc có căn Phật thừa hạnh?
Có căn Độc Giác thừa hạnh, có căn Thanh Văn thừa hạnh. Cũng biết rõ các chúng sanh hoặc có nhân lực mạnh xu hướng đại thừa thiện nhân thành tựu, hoặc có duyên lực mạnh xu hướng đại thừa duyên nhân thành tựu.
Cũng biết rõ các chúng sanh hoặc có nhân lực mạnh thành tựu xu hướng đại thừa thiện nhân, nhưng chúng sanh ấy do phương tiện nhân sanh nhà hạ tiện, hoặc chúng sanh sức phương tiện mạnh dầu chẳng thành tựu thiện nhân quảng đại nhưng chúng sanh ấy lại trồng nhân lực sanh nhà quảng đại.
Cũng biết rõ các chúng sanh hoặc dục giải thanh tịnh mà phương tiện chẳng tịnh, hoặc phương tiện thanh tịnh mà dục giải chẳng tịnh, hoặc dục giải và phương tiện đều thanh tịnh, hoặc đều chẳng thanh tịnh.
Lại này Xá Lợi Phất! Lúc Đại Bồ Tát tu hành Tĩnh Lự Ba la mật, vì được tha tâm trí thông ấy, nên chỗ có trí biết nhân căn tâm hành tiền tế của tất cả chúng sanh và trí tùy các tâm hành ấy mà thuyết pháp, thì đều gọi là tha tâm trí thông Bồ Tát.
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát vì có trí ấy, nên dùng trí thông nhập hậu tế tâm ấy biết rõ các chúng sanh hoặc đời vị lai sẽ có giới nhân mà đời hiện tại thì có thí nhân, hoặc đời vị lai sẽ có thí nhân mà đời hiện tại thì có giới nhân, hoặc đời vị lai sẽ có tinh tấn nhân mà đời hiện tại thì có nhẫn nhân.
Hoặc đời vị lai sẽ có nhẫn nhân mà đời hiện tại thì có tinh tấn nhân, hoặc đời vị lai sẽ có huệ nhân mà đời hiện tại thì có Tĩnh Lự nhân, hoặc có đời vị lai sẽ có Tĩnh Lự nhân mà đời hiện tại thì có huệ nhân. Vô lượng nhân hạnh như vậy, Bồ Tát đều biết rõ.
Đại Bồ Tát cũng biết rõ các chúng sanh, hoặc đời vị lai sẽ có nhân hạnh xuất thế mà đời hiện tại thì có nhân hạnh thế gian, hoặc đời vị lai sẽ có nhân hạnh thế gian, mà đời hiện tại thì có nhân hạnh xuất thế, vô lượng nhân hạnh như vậy, Bồ Tát đều biết rõ.
Đại Bồ Tát cũng biết rõ các chúng sanh, hoặc đời vị lai sẽ có căn đại thừa nhân phát sanh mà đời hiện tại thì có căn Độc Giác thừa, hoặc đời vị lai sẽ có căn Độc Giác thừa nhân phát sanh mà đời hiện tại thì có căn đại thừa, hoặc đời vị lai sẽ có căn đại thừa nhân phát sanh mà đời hiện tại thì có căn Thanh Văn thừa.
Hoặc đời vị lai sẽ có căn Thanh Văn thừa nhân phát sanh mà đời hiện tại thì có căn đại thừa, hoặc đời vị lai sẽ có căn Độc Giác thừa nhân phát sanh mà đời hiện tại thì có căn Thanh Văn thừa, hoặc đời vị lai sẽ có căn Thanh Văn thừa nhân phát sanh mà đời hiện tại thì có căn Độc Giác thừa. Tất cả chúng sanh ở đời vị lai sẽ có căn gì, hoặc nhân hoặc hạnh hoặc duyên, Bồ Tát đều biết rõ cả.
Này Xá Lợi Phất! Nên biết Chư Đại Bồ Tát đối với các chúng sanh chưa thành thục, thì phát khởi tinh tấn dùng phương tiện hóa đạo họ chẳng hề chán mỏi, theo chỗ đáng được ngộ nhập mà thuyết pháp.
Đại Bồ Tát biết chúng sanh ấy là pháp khí gì, thì vì họ mà dạy chánh pháp ấy, công việc thuyết pháp thường không sai thất nên có hiệu là người thuyết pháp chẳng hư luống.
Lại này Xá Lợi Phất! Do tu hành Tĩnh Lự Ba la mật, nên Đại Bồ Tát được tha tâm tác chứng trí thông ấy, đối với các tâm và tâm sở pháp hiện tại sanh khởi của tất cả chúng sanh dầu là vô lượng, nhưng Bồ Tát đều biết rõ cả.
Những là nếu các chúng sanh có tâm tham tâm sân tâm si, hoặc rời lìa tâm tham tâm sân tâm si, Bồ Tát đều biết rõ như thiệt.
Do các hoặc phiền não ấy che chướng tâm các chúng sanh, Đại Bồ Tát đều biết rõ rồi tùy theo mỗi phiền não mà tuyên nói chánh pháp xuất ly.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát có tha tâm trí thông ấy, lúc muốn thuyết pháp đến trước đại chúng, trước phải quan sát tướng căn hành sai biệt của tất cả chúng, rồi theo chỗ đáng dạy mà vì chúng giảng nói.
Phải biết Đại Bồ Tát ấy dùng trí biết rõ căn tâm thắng liệt của chúng sanh có thể biết rõ tánh căn tâm thắng liệt của chúng sanh.
Đại Bồ Tát ấy chẳng vọng khinh hủy tâm tướng của mình và tâm tướng của người, do vì Đại Bồ Tát ấy dùng trí huệ quan sát tâm nối luôn không hở vậy.
Cũng thế, Đại Bồ Tát, dùng niệm quán sát, dùng xu hướng dùng giác dùng ngộ quán sát tâm nối luôn không hở, nên rời lìa tập khí phiền não, dứt hẳn tương tục thanh tịnh vô cấu, sáng suốt vô nhiễm, không trược, không tháo, chiếu rõ các pháp vào trong tất cả tâm hành của các chúng sanh, quán sát nơi tâm nối luôn không hở như vậy.
Đại Bồ Tát nếu hay ngộ nhập trí biết rõ tất cả tâm pháp như vậy, thì gọi là Đại Bồ Tát do tu hành Tĩnh Lự Ba la mật nên được tha tâm thần thông trí nghiệp viên thành.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là Đại Bồ Tát lúc tu hành Tĩnh Lự Ba la mật được túc trụ tùy niệm tác chứng trí thần thông trí nghiệp viên mãn?
Này Xá Lợi Phất! Do Đại Bồ Tát có trí lực túc trụ tùy niệm ấy, nên bao nhiêu chúng sanh ở khắp Thế Giới mười phương có vô số sự việc các đời trước đều có thể tùy niệm biết rõ cả. Hoặc một đời, mười đời, hoặc trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, nhẫn đến vô lượng đời đều có thể biết rõ cả.
Đại Bồ Tát cũng biết rõ kiếp hoại kiếp thành, kiếp thành hoại vô lượng kiếp như vậy đều biết rõ cả. Đại Bồ Tát cũng biết rõ chúng sanh ấy đã từng ở xứ ấy có tên gì họ gì dòng gì, sắc tướng nào trạng mạo nào, hình tượng nào, ăn uống sanh sống thế nào hưởng thọ khổ vui ra sao, vô lượng thứ như vậy đều tùy niệm biết rõ cả.
Đại Bồ Tát cũng biết rõ chúng sanh ấy ở chổ này chết sanh chỗ kia, ở chỗ kia chết sanh chỗ này hoặc của mình hoặc của người vô lượng sự chết sanh hành tướng và xứ sở đều tùy niệm biết rõ cả.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát do y Tĩnh Lự Ba la mật nên trí lực túc trụ có thể tùy niệm biết rõ sự việc vô lượng đời trước của mình, cũng biết rõ tất cả sự việc vô lượng đời trước của vô lượng chúng sanh khác. Lại cũng tùy niệm biết rõ nhân tiền tế sanh thiện căn của mình, nhân tiền tế sanh thiện căn của các chúng sanh.
Trí lực túc trụ của Đại Bồ Tát có vô lượng phương tiện đem căn lành của mình hồi hướng vô thượng bồ đề có thể làm cho chúng sanh nhớ biết căn lành của họ khiến họ phát tâm bồ đề.
Lại hay tùy niệm biết rõ những nhân khổ lạc đã có đời trước và cũng biết rõ tất cả đều về nơi vô thường khổ và vô ngã, biết rõ như vậy rồi, Đại Bồ Tát thật hành Bồ Tát hạnh.
Không phóng dật nơi sắc nơi của nơi quyến thuộc, không tự do phóng dật, không phóng dật mong cầu ngôi Chuyển Luân Vương, Thiên Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương.
Không phóng dật mong cầu sanh vào các xứ hưởng thọ vui sướng hay giàu sang quyền quí, chỉ trừ vì muốn thành thục chúng sanh nên dùng nguyện lực mà thọ sanh vào các cõi.
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát ấy vì biết rõ tất cả đều về nơi vô thường khổ vô ngã nên đối với các hành phiền não quá khứ hay khéo quở trách khinh hủy chán bỏ, chẳng còn dung nạp nó ở hiện tại, nhẫn đến lúc bị nhân duyên nạn chết khổ lớn nặng cũng chẳng hề tạo nghiệp ác hay pháp ác.
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát ấy đem tất cả thiện căn đã có đều hồi hướng vô thượng bồ đề và làm cho các thiện căn hiện tại đang tích chứa thêm rộng lớn vì muốn nhiếp thọ tất cả chúng sanh và xa rời tất cả hồi hướng bất bình đẳng vậy. Có đủ những thiện căn ấy, Đại Bồ Tát nối giống Tam Bảo cho chẳng đoạn tuyệt đều để hồi hướng nhất thiết chủng trí.
Này Xá Lợi Phất! Nên biết do sức niệm định mà Đại Bồ Tát mới thành tựu được vô lượng pháp lành như vậy.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát do tu hành Tĩnh Lự Ba la mật nên được trí túc trụ ấy, tùy niệm biết rõ rất khéo an trụ, do vì trụ nơi pháp giới vậy.
Tùy niệm ấy kiên cố bất động vì phương tiện thiện xảo tập họp vậy.
Tùy niệm ấy không điệu tán vì đã hay tu nghiệp Tĩnh Lự vậy.
Tùy niệm ấy không tháo động nhiễu loạn, vì diệu Xa Ma Tha hay Trụ Trì vậy.
Tùy niệm ấy không mê lầm vì diệu tỳ bát xá na nhiếp thọ vậy.
Tùy niệm ấy tánh không thô lỗ chất phát vì hay chúng thanh tịnh hiện trí vi diệu vậy.
Tùy niệm ấy hay nhớ giữ vì các niệm lâu xa không quên mất vậy.
Tùy niệm ấy là kho kín châu báu, vì khéo chứa họp tư lương phước đức vậy.
Tùy niệm ấy chẳng tùy theo người vì khéo chứa họp tư lương trí huệ vậy.
Tùy niệm ấy đã đến bỉ ngạn, vì khéo chứa họp tư lương các độ vậy.
Nên biết vô lượng vô biên những pháp lành vi diệu đều do niệm lực nắm giữ nên đối với đời quá khứ và đời hiện tại phát khởi pháp nhớ biết không quên mất. Đây gọi là Đại Bồ Tát do y Tĩnh Lự Ba la mật nên được túc trụ thần thông thành tựu đầy đủ nghiệp trí viên mãn vậy.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là Đại Bồ Tát như ý túc tác chứng thần thông, những gì gọi là như ý túc thông trí nghiệp viên mãn?
Này Xá Lợi Phất! Vì y Tĩnh Lự Ba la mật nên Đại Bồ Tát được dục Tam Ma Địa đoạn hành thành tựu mà tu như ý túc, rồi tâm chuyên cần ấy quán Tam Ma Địa đoạn hành thành tựu mà tu như ý túc.
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát y nơi dục cần tâm và quán ấy trợ phát pháp định rất khéo tu trau rất khéo thành lập tự tại chuyển vận nên hay tu tập Tứ Như Ý Túc.
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thành tựu tứ như ý túc rồi, tùy theo ý mình muốn thì như ý thần thông liền hiện tiền có thể hiển thị vô lượng thần biến, Đại Bồ Tát dầu hiện vô lượng thần thông biến hóa, nhưng đều vì độ thoát các chúng sanh mà tu tập vậy.
Có chúng sanh đáng thấy thần thông ấy mà chịu điều phục, thì Đại Bồ Tát vì họ mà hiện thần biến ấy. Hoặc hiện sắc tướng hoặc hiện oai lực, hoặc ngầm gia bị, nhân đó chúng sanh ấy được giải thoát.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là Đại Bồ Tát như ý túc thông hiện các sắc tướng để điều phục chúng sanh?
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát quan sát các chúng sanh, do thấy hoặc nghe sắc tượng ấy, mới được điều phục, Bồ Tát liền hiện sắc tượng ấy: Hoặc hiện sắc tượng Như Lai, hoặc hiện sắc tượng Độc Giác, hoặc hiện sắc tượng Thanh Văn, hoặc hiện sắc tượng Thiên Đế, hoặc hiện sắc tượng Phạm Vương, hoặc hiện sắc tượng Tứ Thiên Vương, hoặc hiện sắc tượng Chuyển Luân Vương và vô lượng sắc tượng khác.
Tùy theo sắc tượng nào mà chúng sanh được độ, Bồ Tát đều có thể thị hiện, cho đến như sắc tượng súc sanh chẳng hạn. Bồ Tát đều vì chúng sanh mà thị hiện thuyết pháp.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là như ý túc thông hiện các oai lực?
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát quan sát các chúng sanh nhiều tăng thượng mạn, sân hận kiêu căng phóng dật rất nặng, do thấy thần lực ấy mà được điều phục, Đại Bồ Tát liền hiện thần lực ấy: Hoặc hiện sức đại lực sĩ, hoặc hiện sức một phần tư của na la diên, hoặc hiện một nửa hoặc toàn phần sức lực của na la diên, hoặc đến gấp bội để các chúng được hóa độ.
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát do Tĩnh Lự Ba la mật mà được như ý thần thông lực, có thể dùng hai ngón tay cất tòa núi chúa Tu Di lên nhẹ nhàng như lấy một trái xoài, và có thể ném núi chúa ấy qua để nơi vô biên Thế Giới khác.
Núi chúa Tu Di ấy cao mười sáu vạn tám ngàn do tuần, rộng tám vạn bốn ngàn do tuần, do bốn chất báu: Vàng, bạc, lưu ly và pha lê tạo thành cao rộng đệ nhất. Do an trụ như ý thần thông nên dầu ném núi qua phương khác mà sức lực của Bồ Tát không hề tổn giảm.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát an trụ như ý thần thông có thể dùng bàn tay bưng cả Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới này từ thủy luân đến hữu đảnh đứng cả một kiếp và hiện tất cả oai nghi không hề trở ngại.
Này Xá Lợi Phất! Vô lượng sự như vậy chẳng nghĩ bàn được, Đại Bồ Tát đều có thể tùy chỗ thích đáng mà hiện các thần biến.
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thị hiện đại lực ấy cho các chúng sanh kia hết kiêu mạn sân hận mà chịu điều phục rồi, Đại Bồ Tát liền theo chỗ thích nghi mà thuyết pháp cho họ.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là như ý túc thông gia bị?
Đại Bồ Tát dùng sức trí thông gia bị ấy, tùy chỗ gia niệm đều được thành tựu. Nếu muốn gia niệm biển lớn sâu rộng khiến như dấu chân trâu, cho biển lớn ấy liền đúng như niệm lực của Bồ Tát mà lượng bằng dấu chân trâu. Nếu muốn dấu chân trâu rộng lớn như biển lớn thì liền lớn bằng biển lớn.
Nếu Đại Bồ Tát muốn ngọn lửa lớn lúc kiếp thiêu thành khối nước liền thành khối nước, ngược lại cũng vậy, tất cả đều theo ý niệm của Đại Bồ Tát mà thành tựu.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nếu có gia niệm pháp hạ trung thượng chuyển đổi lẫn nhau, liền đều thành tựu cả. Đại Bồ Tát phàm gia niệm thần thông giúp vật thì cứng chắc khó hư chẳng thể chuyển biến được, tất cả người hay Trời thế gian đều chẳng thể giao động cất dấu, chỉ trừ Phật Thế Tôn.
Này Xá Lợi Phất! Phải biết Đại Bồ Tát ấy dùng sức niệm gia trì như vậy chỉ vì những chúng sanh tôn trọng các thứ biến hiện kỳ lạ quảng đại nên thị hiện oai thần để thuyết pháp cho họ.
Lại này Xá Lợi Phất! Do Đại Bồ Tát tu hành Tĩnh Lự Ba la mật nên được như ý thần túc ấy tự tại không thối thất vượt khỏi cảnh giới của ma phiền não thẳng vào cảnh giới tất cả Chư Phật, đầy đủ phương tiện chẳng não hại chúng sanh, chứa họp tư lương tất cả thiện căn, tất cả Ma Vương ma quân và Chư Thiên oai đức chẳng ngăn dứt được. Đây gọi là Đại Bồ Tát y Tĩnh Lự Ba la mật được như ý túc tác chứng thần thông trí nghiệp viên mãn.
Lại này Xá Lợi Phất! Thế nào là Đại Bồ Tát y Tĩnh Lự Ba la mật được năm thần thông ấy, thần thông ấy có nghĩa lý gì và do những gì mà gọi là trí?
Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nếu quán sắc tượng thì gọi là thần thông, nếu có thể biết rõ sắc tượng tận diệt mà chẳng chứng tận thì gọi là trí. Nếu nghe biết tất cả âm thanh thì gọi là thần thông, nếu biết rõ được âm thanh tiền tế bất khả đắc thì gọi là trí.
Nếu rõ thấu được tâm hành của chúng sanh thì gọi là thần thông, nếu biết rõ tâm tánh tịch diệt mà chẳng chứng tịch diệt ấy thì gọi là trí. Nếu có thể tùy niệm quá khứ biên tế thì gọi là thần thông, nếu biết rõ được tam thế vô ngại thì gọi là trí.
Với các Phật Độ hoặc qua hoặc lại thì gọi là thần thông, nếu biết được quốc độ đồng tướng hư không thì gọi là trí. Biết các pháp hưng khởi thì gọi là thần thông, quán pháp bình đẳng thì gọi là trí. Sáng thấu các thế gian thì gọi là thần thông, chẳng tạp với thế gian thì gọi là trí.
Oai thế che khuất tất cả Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Vương, Chư Thiên thì gọi là thần thông, biết rõ tất cả Thanh Văn Duyên Giác chỗ chứng của họ hạ liệt thì gọi là trí. Những thần thông và trí như vậy số đến vô lượng chẳng thể nghĩ bàn. Đây gọi là Đại Bồ Tát do y Tĩnh Lự Ba la mật tinh cần tu tập nên được thần thông trí nghiệp viên mãn như vậy.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát do y Tĩnh Lự Ba la mật nên chứng được vô biên tĩnh định thâm dìệu.
Tại sao?
Vì Đại Bồ Tát xả bỏ bao nhiêu vô số phiền não tích tập nơi tâm, thì cũng có bấy nhiêu vô số Tĩnh Lự tư lương công đức an trụ nơi tâm mình.
Bao nhiêu vô số chúng sanh do tâm phiền não mà sanh các tán loạn, Đại Bồ Tát cũng phải tích tập bấy nhiêu vô số Tĩnh Lự công đức. Đây gọi là Đại Bồ Tát chứng được Tĩnh Lự số đến vô lượng vô biên đều do Tĩnh Lự Ba la mật phát khởi.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát chứng những chánh định rất sâu vi diệu, an trụ trong đó, Đại Bồ Tát đúng thời bình đẳng dẫn nhiếp, chỗ ấy gọi là đại tự tại.
Thế nào gọi là bình đẳng dẫn nhiếp?
Này Xá Lợi Phất! Đại tự tại dẫn nhiếp tánh bình đẳng của hữu tình, nên gọi là chánh định ấy là đại tự tại. Vì đại tự tại dẫn nhiếp tánh bình đẳng của tâm hữu tình, dẫn nhiếp tánh bình đẳng của dục giải, dẫn nhiếp tánh bình đẳng của phương tiện, dẫn nhiếp tánh bình đẳng của tăng thượng dục giải, dẫn nhiếp tánh bình đẳng của đàn na, dẫn nhiếp tánh bình đẳng của Thi La, của Sằn Đề, của Tỳ Lê Gia, của Tĩnh Lự, của Bát Nhã, dẫn nhiếp tánh bình đẳng tất cả pháp.
Đây gọi là Đại Bồ Tát Tĩnh Lự đại tự tại rất sâu vi diệu dẫn nhiếp pháp tánh bình đẳng vậy.
Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát do y Tĩnh Lự Ba la mật nên được Tĩnh Lự rất sâu vi diệu chỉ trí mới nhập được, cũng được tên là chánh an trụ.
Sao gọi là chánh an trụ?
Vì diệu định ấy đồng với pháp tánh.
Tại sao?
Vì nếu bồ đề bình đẳng tức là tất cả hữu tình bình đẳng. Nếu tất cả hữu tình bình đẳng tức là các pháp bình đẳng. Nếu chứng nhập được tánh bình đẳng ấy thì gọi là chánh an trụ vậy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bốn Mươi Tám - Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Bốn Mươi Tám - phẩm Thành Biện
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Sáu Mươi - Kinh Bóng Vàng đáy Nước
Phật Thuyết Kinh Chuyển Pháp Luân Tồi Ma Oán địch Pháp