Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Sáu - Pháp Hội Bồ Tát Kiến Thiệt - Phẩm Thứ Hai Mươi Năm - Phẩm Lục Giới Sai Biệt - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ MƯỜI SÁU

PHÁP HỘI BỒ TÁT KIẾN THIỆT  

PHẨM THỨ HAI MƯƠI NĂM

PHẨM LỤC GIỚI SAI BIỆT  

PHẦN BA  

Này Đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch.

Tất cả pháp không là không giải pháp môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Nếu vô tướng thì không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.

Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba giải thoát môn cùng đi chung với không, Niết Bàn là con đường trước, xa rời tướng, xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.

Này Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Đại Vương! Thí như người chiêm bao lấy hương gỗ Chiên Đàn hoặc hương Lá Đa Ma La và các thứ hương khác để xoa thân mình. Thức dậy người ấy các thứ hương được xoa trong mộng vừa rồi.

Ý Đại Vương thế nào?

Sự thấy trong mộng ấy có thiệt chăng?

Bạch Thế Tôn! Không có thiệt.

Này Đại Vương! Người ấy cho là thiệt thì có phải là trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí.

Tại sao?

Vì trong mộng cứu cánh không có hương huống là xoa thân. Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.

Này Đại Vương! Cũng vậy, hàng phu ngu si không học chánh pháp, họ ngửi hương thơm bèn mến thích rồi tạo mười nghiệp nhiễm trước nơi thân ngữ ý. Nghiệp được tạo rồi liền dứt mất, khi mất, nghiệp ấy chẳng nương ở mười phương.

Nghiệp ấy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đã làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Như trong chiêm bao thức dậy nhớ hương thơm được ngửi trong mộng.

Này Đại Vương! Tối hậu thức lám chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu sanh khởi, hoặc sanh địa ngục v.v… đến hoặc sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Đại Vương! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Này Đại Vương! Lúc hậu thức diệt gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.

Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.

Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.

Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.

Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.

Thọ sanh ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.

Tại sao?

Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không.

Duyên, thể tánh duyên không.

Nghiệp, thể tánh nghiệp không.

Tử, thể tánh tử không.

Sơ thức, thể tánh sơ thức không.

Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.

Thế gian, thể tánh thế gian không.

Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không.

Khởi, thể tánh khởi không.

Hoại, thể tánh hoại không.

Này Đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ vì theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Đại Vương! hải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Đã không tướng nên không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.

Như vậy tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không. Niết Bàn là con đường trước, xa rời tướng xa rời nguyện, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Này Đại Vương! Phải biết căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Đại Vương! Như người chiêm bao thấy cổ mình đeo những tử thi rắn, chó, thây người v.v… thức dậy, người nhớ cảnh mộng rồi sợ sệt.

Ý Đại Vương thế nào, cảnh mộng ấy có thiệt chăng?

Bạch Thế Tôn! Không có thiệt.

Này Đại Vương! Người ấy chấp lấy tử thi được thấy trong mộng có phải là trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí.

Tại sao?

Vì trong mộng tử thi thì không có, huống là cột nơi cổ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

Này Đại Vương! Cũng vậy, hàng phám phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy thúi xấu thì chấp trước ghét bỏ mà tạo mười nghiệp sân ghét nơi thân khẩu ý?

Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng.

Người ấy thấy rồi sanh lòng ghét bỏ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra?

Như thức dậy nhớ sự việc trong mộng.

Này Đại Vương! Tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai nhân duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v… đến hoặc sanh trong Nhân Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Đại Vương! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp được làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Sơ thức, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tại sao?

Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không.

Duyên, thể tánh duyên không.

Nghiệp, thể tánh nghiệp không.

Tử, thể tánh tử không.

Sơ thức, thể tánh sơ thức không.

Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.

Thế gian, thể tánh thế gian không.

Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không.

Khởi, thể tánh khởi không.

Hoại, thể tánh của hoại không.

Này Đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo, chỉ vì theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch.

Tất cả pháp không là không giải thoát môn?

Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Đã vô tướng cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.

Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, trên đường đến Niết Bàn, xa lìa tướng, xa lìa nguyện, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Này Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Đại Vương! Như người chiêm bao thấy tỷ căn hoại. Thức dậy, người ấy ghi nhớ mũi mình hư.

Ý Đại Vương như thế nào, sự thấy trong mộng có thiệt chăng?

Bạch Thế Tôn! Chẳng có thiệt.

Này Đại Vương! Người ấy chấp cảnh mộng là thiệt thì có phải là trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí.

Tại sao?

Vì trong mộng cứu cánh không có tỷ căn huống là hư hoại. Người ấy tự luống nhọc nhằn, đều không có thiệt.

Này Đại Vương! Hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy tỷ căn hoại thì chấp trước lo sợ mà tạo mười nghiệp chấp trước lo sợ nơi thân khẩu ý.

Nghiệp ấy được tạo xong liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc đã làm hiện trong tâm tưởng.

Thấy rồi người ấy sanh lòng sợ sệt, tự phần nghiệp hết nghiệp khác hiện ra. Như thức dậy nhớ việc trong mộng. Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai nhân duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v… đến hoặc sanh trong Nhân Thiên.

Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng hoại chẳng tuyệt.

Này Đại Vương! Không một pháp này từ đời này đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã tạo và thọ quả báo đều không mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Lúc hậu thức ấy diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu tới, lúc diệt cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Sơ thức sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cung không đến đâu.

Tại sao?

Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không.

Duyên, thể tánh duyên không.

Nghiệp, thể tánh nghiệp không.

Tử, thể tánh tử không.

Sơ thức, thể tánh sơ thức không.

Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.

Thế gian, thể tánh thế gian không.

Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không.

Khởi, thể tánh khởi không.

Hoại, thể tánh hoại không.

Này Đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Đã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.

Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, trên đường trước là Niết Bàn, xa lìa tướng, xa lìa nguyện, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới cùng khắp hư không tế.

Này Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Đại Vương! Như người mộng thấy mình đói khát được cơm canh ngon tha hồ ăn uống. Thức dậy thấy người ghi nhớ cơm canh ngon được ăn trong mộng.

Ý Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

Bạch Thế Tôn! Không có thiệt.

Này Đại Vương! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí.

Tại sao?

Vì trong mộng cứu cánh không có cơm canh huống lại có ăn. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.

Này Đại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy các thức ăn thì chấp trước tham ưa say nhiễm rồi tạo nghiệp tham nhiễm mười thứ nơi thân khẩu ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt.

Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, nhẫn lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng tham chấp, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Này Đại Vương! Tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai nhân duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, thức sanh trong sáu đạo. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp dã làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Lúc hậu thức ấy diệt gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu dến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tại sao?

Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không.

Duyên, thể tánh duyên thức không.

Nghiệp, thể tánh nghiệp thức không.

Tử, thể tánh tử không.

Sơ thức, thể tánh sơ thức không.

Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.

Thế gian, thể tánh thế gian không.

Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không.

Khởi, thể tánh khởi không.

Hoại, thể tánh hoại không.

Này Đại Vương! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều không mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Đã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.

Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước là Niết Bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Này Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Đại Vương! Như người mộng thấy mình quá đói gặp được dưa đắng, trái câu xa, trái nhâm bà v.v… liền lấy ăn. Thức dậy người ấy ghi nhớ trong mộng ăn những trái đắng.

Ý Đại Vương thế nào, trong mộng người ấy có thiệt ăn trái đắng chăng?

Bạch Thế Tôn! Không có thiệt.

Này Đai Cương! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trí.

Tại sao?

Vì trong mộng còn không có trái đắng huống là có ăn. Người ấy luống sự nhọc nhằn, đều không có thiệt.

Này Đại Vương! Cũng vậy hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mộng thấy bị đói khổ, họ liền chấp trước mà tạo mười nghiệp chấp trước nơi thân khẩu và ý.

Nghiệp được tạo rồi liền dứt mất. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, cho đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt, thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng.

Người ấy thấy rồi, trong tâm sanh vọng tưởng, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sanh ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.

Như vậy tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi thác sanh vào sáu loài. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ quả báo, đều chẳng mất hư, không có người tạo nghiệp cũng không có người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh gọi là vào sanh số.

Hậu thức ấy, lúc khởi nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Sơ thức ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tại sao?

Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không.

Duyên, thể tánh duyên không.

Nghiệp, thể tánh nghiệp không.

Tử, thể tánh tử không.

Sơ thức, thể tánh sơ thức không.

Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.

Thế gian, thể tánh thế gian không.

Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không.

Khởi, thể tánh khởi không.

Hoại, thể tánh hoại không.

Này Đại Vương! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

Này Đại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Đã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.

Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng đi với không trên đường trước, Niết Bàn, xa lìa tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết Bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.

Này Đại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.

Này Đại Vương! Như người mộng thấy lưỡi mình hư hoại. Thức dậy người ấy ghi nhớ sự trong mộng.

Ý Đại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?

Bạch Đại Vương! Không có thiệt.

Này Đại Vương! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt thì có phải là trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Chẳng phải là trí.

Tại sao?

Vì trong mộng lưỡi còn chẳng có huống là hư hoại.

Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.

Này Đại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy thiệt căn hư hoại thì chấp trước sanh long chẳng ưa mà khởi mười nghiệp chấp trước nơi thân khẩu ý.

Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt, chẳng nương ở mười phương, cho đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm trước hiện trong tâm tưởng.

Người ấy thấy rồi lòng lo sợ, tự phần nghiệp hết nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng. Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhân duyên, vì hai nhân duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu thú. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.

Này Đại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ báo đều không mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.

Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.

Hậu thức ấy khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.

Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.

Tại sao?

Vì tự tánh ly vậy.

Hậu thức, thể tánh hậu thức không.

Duyên, thể tánh duyên không.

Nghiệp, thể tánh nghiệp không.

Tử, thể tánh tử không.

Sơ thức, thể tánh sơ thức không.

Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.

Thế gian, thể tánh thế gian không.

Niết Bàn, thể tánh Niết Bàn không.

Khởi, thể tánh khởi không.

Hoại, thể tánh hoại không.

Tác nghiệp và quả báo như vậy đều không mất hư, không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhất nghĩa.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần