Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Bốn - Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát - Phần Bốn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

 

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI BỐN

PHÁP HỘI HẢI HUỆ BỒ TÁT  

PHẦN BỐN  

Này thiện nam tử! Nếu Bồ Tát trước ngã thì tăng thêm ma sự.

Đại Bồ Tát cũng biết có ngã cũng biết vô ngã, cũng biết có pháp chẳng phải có ngã chẳng phải vô ngã, biết như vậy thì không có một pháp nào tăng giảm.

Vì tất cả chúng sanh bị vô minh che trùm nên Bồ Tát vì họ mà muốn trang nghiêm vô thượng đại thừa chớ chẳng phải vì mình mà phát trang nghiêm. Phát trang nghiêm rồi tự nghĩ rằng ai trang nghiêm pháp kiên cố chẳng hư hoại, ta nên trang nghiêm.

Ta cũng chẳng phải vì phá ngã chúng sanh thọ mạng sĩ phu mà trang nghiêm, chính là vì phá những tà hoặc ác kiến trước ngã chúng sanh thọ mạng sĩ phu của các chúng sanh mà ta phát trang nghiêm.

Chúng sanh điên đảo thấy ngũ ấm này là thường là lạc là ngã là tịnh, ta nên vì họ mà giảng nói vô thường khổ vô ngã bất tịnh cho các chúng sanh được chân thiệt trí.

Nếu chúng sanh có lòng nguyện cầu thì nên biết người ấy là có trước chấp. Không có trước chấp thì không có hư dối. Không có hư dối thì được chân thiệt trí biết nơi quá khứ vị lai hiện tại chẳng trước quá khứ vị lai hiện tại. Sao vậy, vì quá khứ đã hết, vị lai chưa đến, hiện tại chẳng trụ.

Nếu ở nơi Tam Thế không có niệm tưởng trước chấp là chẳng điên đảo là Bồ Tát hạnh, biết rõ các hành của tất cả chúng sanh.

Biết rõ hành rồi thì rành rẽ diễn nói về nghiệp về quả. Cũng biết rõ tham hành sân hành si hành.

Biết có chúng sanh hành nơi tham dục trang nghiêm nơi sân, hành nơi sân trang nghiêm nơi tham, hành nơi ngu si trang nghiêm nơi tham, hành nơi tham dục trang nghiêm nơi si, hành nơi ngu si trang nghiêm nơi sân.

Biết có chúng sanh nơi sắc thì sanh tham, nơi thanh thì sanh sân, có chúng sanh nơi sắc thì sanh sân, nơi thanh thì sanh tham.

Hoặc có chúng sanh nơi hương thì sanh tham, nơi vị thì sanh sân. Hoặc nơi vị sanh tham, mà nơi hương thì sanh sân.

Có chúng sanh nơi xúc thì sanh tham, nơi pháp sanh sân. Hoặc nơi pháp thì sanh tham, mà nơi xúc thì sanh sân.

Còn có những chúng sanh tham dục yếu kém mà sân hận mãnh liệt, hoặc sân hận yếu kém mà tham dục thì mãnh liệt. Có những chúng sanh tham yếu mà si mạnh, hoặc si yếu mà tham mạnh. Có những chúng sanh sân yếu mà si mạnh, hoặc si yếu mà sân thì mạnh.

Còn có chúng sanh vì sắc mà được điều phục chớ chẳng phải vì thanh, hương, vị, xúc và pháp.

Có chúng sanh vì thanh mà được điều phục chớ chẳng phải vì sắc, hương, vị, xúc và pháp.

Có chúng sanh vì hương mà được điều phục chớ chẳng phải vì sắc, thanh, vị, xúc và pháp.

Có chúng sanh vì vị mà được điều phục chớ chẳng phải vì sắc, thanh, hương, xúc và pháp.

Có chúng sanh vì xúc mà được điều phục chớ chẳng phải vì sắc, thanh, hương, vị và pháp.

Có chúng sanh vì pháp mà được điều phục chớ chẳng phải vì sắc, thanh, hương, vị và xúc.

Còn có các chúng sanh vì tâm tịch tĩnh mà được điều phục chớ chẳng phải vì thân tịch tĩnh, hoặc vì thân tịch tĩnh mà được điều phục chớ chẳng phải vì tâm tịch tĩnh mà được điều phục.

Còn có những chúng sanh hoặc nhân nghe nói vô thường mà được điều phục chớ chẳng phải nhân nghe khổ vô ngã bất tịnh.

Hoặc nhân nghe khổ mà được điều phục chớ chẳng phải nhân nghe vô thường vô ngã và bất tịnh.

Hoặc nhân nghe vô ngã mà được điều phục chớ chẳng phải nhân nghe vô thường khổ và bất tịnh.

Hoặc có chúng sanh nhân nghe bất tịnh mà được điều phục chớ chẳng phải nhân nghe vô thường khổ và vô ngã mà được điều phục.

Còn có những chúng sanh hoặc do hiện thần thông mà được điều phục chớ chẳng phải do tha tâm trí mà được điều phục.

Hoặc do tha tâm trí mà được điều phục chớ chẳng phải do thần thông mà được điều phục.

Này thiện nam tử! Còn có những chúng sanh siêng tu tinh tiến thì chậm được giải thoát mà ít tu tinh tiến thì mau được giải thoát.

Hoặc có chúng sanh siêng tu tinh tiến thì mau được giải thoát mà ít tu tinh tiến thì chậm được giải thoát.

Có nhân giải thoát mà chẳng phải duyên giải thoát.

Có duyên giải thoát mà chẳng phải nhân giải thoát.

Có nhân duyên giải thoát, có chẳng phải nhân duyên giải thoát.

Có các chúng sanh do quán nội pháp mà được giải thoát chớ chẳng phải do quán ngoại pháp.

Có chúng sanh do quán ngoại pháp được giải thoát mà chẳng phải do quán nội pháp.

Có chúng sanh do quán nội pháp ngoại pháp mà được giải thoát.

Có chúng sanh chẳng quán nội pháp ngoại pháp mà được giải thoát.

Có chúng sanh nhân lạc hạnh được giải thoát mà chẳng phải do khổ hạnh.

Có chúng sanh nhân khổ hạnh được giải thoát mà chẳng phải do lạc hạnh.

Có chúng sanh nhân khổ hạnh và lạc hạnh được giải thoát.

Có chúng sanh chẳng nhân khổ hạnh lạc hạnh được giải thoát.

Có chúng sanh do khen thưởng mà được điều phục.

Có chúng sanh do trách phạt mà được điều phục.

Có chúng sanh do khen và trách mà được điều phục.

Có chúng sanh chẳng do khen và trách mà được điều phục.

Có chúng sanh do nghịch thuyết mà được điều phục chẳng phải do thuận thuyết pháp.

Có chúng sanh do thuận thuyết pháp mà được điều phục chẳng phải do nghịch thuyết pháp.

Có chúng sanh nhân nghịch thuyết và thuận thuyết hoặc có chẳng do nghịch thuyết và thuận thuyết mà được điều phục.

Có chúng sanh do nghe lược thuyết, có chúng sanh do nghe quảng thuyết, có chúng sanh do nghe cả lược thuyết và quảng thuyết, có chúng sanh chẳng do nghe lược thuyết quảng thuyết mà được điều phục.

Có chúng sanh do tứ chân đế được điều phục.

Có chúng sanh do tứ niệm xứ được điều phục.

Có chúng sanh do tứ chánh cần được điều phục.

Có chúng sanh do tứ như ý túc được điều phục.

Có chúng sanh do ngũ căn được điều phục.

Có chúng sanh do ngũ lực được điều phục.

Có chúng sanh do thất giác chi được điều phục.

Có chúng sanh do bát chánh đạo được điều phục.

Này thiện nam tử! Nghiệp hành của các chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, tâm của chúng sanh cũng chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh điều phục chẳng thể nghĩ bàn, pháp môn được nhập của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới của các chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn.

Đại Bồ Tát được trí bất khả tư nghị như vậy mới biết được sở hành bất khả tư nghị của các chúng sanh.

Này thiện nam tử! Ví như tấm lưới có nhiều gút mắt, có người ở trong ấy dùng sức chú thuật phá lưới thoát ra tùy ý mà đi. Cũng vậy, Đại Bồ Tát vào trong chúng sanh dùng sức trí huệ phá lưới phiền não tùy ý tự tại, dầu chưa chứng được vô thượng bồ đề mà có thể thông đạt sở hành của các chúng sanh.

Tôn Giả Xá Lợi Phất bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát lúc mới phát tâm vô thượng bồ đề nghe nói sở hành bất tư nghị của các chúng sanh như vậy mà chẳng kinh chẳng sợ, sự này thiệt rất khó chẳng thể nghĩ bàn được.

Đức Phật nói: Này Xá Lợi Phất! Ý của ông nghĩ thế nào, như sư tử con lúc mới được đẻ ra nghe tiếng rống của sư tử nó có kinh sợ chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Dầu mới sanh nhưng sư tử con không kinh sợ khi nghe tiếng rống của sư tử.

Đức Phật nói: Này Xá Lợi Phất! Cũng vậy, Đại Bồ Tát lúc mới phát tâm vô thượng bồ đề nghe nói sở hành bất tư nghị của các chúng sanh chẳng kinh chẳng sợ.

Lại này Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ thế nào, thế lực của mồi lửa dầu nhỏ mà nó có sợ đống củi khô lớn chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Mồi lửa nhỏ không sợ củi khô lớn.

Đức Phật nói: Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát lúc sơ phát bồ đề tâm vô thượng được lửa trí huệ cũng như vậy.

Lại này Xá Lợi Phất! Nay Đức Như Lai lấy việc chẳng phải ví dụ để làm ví dụ. Ví như có ngọn lửa giao hẹn sau bảy ngày sẽ cùng củi gỗ khô chiến đấu.

Bấy giờ bao nhiêu củi gỗ khô cùng họp tụ lại một chỗ cao lớn như tòa núi Tu Di, mà ngọn lửa ấy vẫn không núng sợ tự biết sức mình có thể chống phá nổi chẳng cần phải giúp thêm.

Cũng vậy, dầu các phiền não cùng hòa hiệp chung nhau thế lực mãnh liệt, nhưng sức trí huệ của Bồ Tát đều có thể tiêu phục.

Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát có hai thứ sức lực, một là phiền não lực, hai là trí huệ lực. Bồ Tát nếu không có phiền não lực thì chẳng có thể cùng đồng với hành nghiệp của các chúng sanh, cũng chẳng có thể biết được hành xứ của các chúng sanh và cũng sẽ đồng như bậc Thanh Văn và Duyên Giác.

Vì vậy nên Bồ Tát dùng phiền não lực đi đến khắp các cõi hóa độ các chúng sanh chẳng hề kinh sợ, đây gọi là Bồ Tát hiện hành phương tiện.

Này Xá Lợi Phất! Như có số đốm lửa nhiều vô lượng ngàn vạn ức cũng chẳng thể chiếu lấn được ánh sáng mặt nhật. Cũng vậy, dầu có vô lượng vô số phiền não cũng chẳng thể ngăn ngại được trí quang của Bồ Tát.

Này Xá Lợi Phất! Như một hoàn thuốc A Già Đà có khả năng phá được đại độc. Trí huệ của Bồ Tát cũng vậy, chút ít sức trí huệ có khả năng phá vô lượng đại phiền não.

Này Xá Lợi Phất! Như trận mưa nước một vị, rơi xuống rồi thì tùy theo đất mà có các thứ vị. Một giải thoát trí của Đại Bồ Tát cũng vậy, theo căn tánh của các chúng sanh mà nói nhiều pháp sai khác.

Này Xá Lợi Phất! Như dưới cây Diêm Phù có bùn hoàng kim, trong bùn này có các loại báu quý. Trong vô thượng bồ đề tâm mới phát của Bồ Tát cũng vậy, trong tâm ấy có đủ Thanh Văn, Bích Chi Phật.

Này Xá Lợi Phất! Như các Tiểu Vương đều thuộc Chuyển Luân Thánh Vương. Cũng vậy, tất cả hàng Nhân Thiên đều đến quy thuộc sơ tâm Bồ Tát.

Này Xá Lợi Phất! Như người phước mỏng ít thì chẳng gặp được Thất Bảo. Cũng vậy, nếu người chẳng thể ở chỗ vô lượng Chư Phật gieo trồng thiện căn thì chẳng thể phát tâm vô thượng bồ đề.

Này Xá Lợi Phất! Như mầm non mía thì không có các vị thạch mật v.v... cũng vậy, nếu người không có tâm vô thượng bồ đề thì không có các công đức Tam Bảo.

Này Xá Lợi Phất! Như y vương Kỳ Bà thường nói rằng tất cả vật có trong thiên hạ không gì chẳng phải là thuốc. Cũng vậy, Bồ Tát nói tất cả các pháp không gì chẳng phải là bồ đề.

Này Xá Lợi Phất! Như A Tu La Vương tận lực cũng không ngăn được vòng đi của mặt nhật nguyệt. Cũng vậy, tất cả ma chúng dùng hết thế lực chẳng thể trở ngại Bồ Tát siêng tu bồ đề đạo.

Này Xá Lợi Phất! Như sắc giới cung điện Chư Thiên an trụ tại hư không. Cũng vậy, bồ đề được có của Bồ Tát cũng y dựa nơi không mà an trụ.

Này Xá Lợi Phất! Như hư không có thể dung thọ tất cả vạn vật mà hư không ấy không hề tăng giảm. Vô lượng Phật Pháp cũng vậy, dầu có Bồ Tát phát tâm nguyện cầu mà Phật Pháp ấy vẫn không tăng giảm.

Này Xá Lợi Phất! Như có người tha hồ tùy sức mình đi trong hư không mà hư không ấy không hề tăng giảm. Cũng vậy, Bồ Tát dùng hết tín lực đi trong Phật trí mà Phật trí ấy vẫn không tăng giảm.

Này Xá Lợi Phất! Như thợ lò gốm lúc làm chưa thành món vật thì vật ấy chưa được tên món vật. Cũng vậy lúc chưa phát tâm vô thượng bồ đề thì pháp lành của Bồ Tát cũng chưa được tên.

Này Xá Lợi Phất! Như người đã được thấy Chuyển Luân Thánh Vương thì chẳng cầu thấy các Tiểu Vương. Cũng vậy, Bồ Tát đã phát tâm vô thượng bồ đề rồi thì chẳng còn phát tâm Thanh Văn, tâm Bích Chi Phật.

Này Xá Lợi Phất! Như các bảo châu chẳng sản xuất ở những nơi khác mà phải sản xuất ở lòng đại hải. Cũng vậy, trong pháp Thanh Văn, Bích Chi Phật chẳng sản xuất được Tam Bảo, mà Tam Bảo phải được sản xuất trong pháp Bồ Tát.

Này Xá Lợi Phất! Như bậc Thái Tử chẳng gọi là Vua chẳng phải chẳng gọi là Vua. Cũng vậy, Đại Bồ Tát chẳng gọi là Phật chẳng phải chẳng gọi là Phật.

Này Xá Lợi Phất! Thất Bảo dầu là lượng nhỏ cũng chẳng nên khinh, tại sao, vì lượng bảo dầu nhỏ mà có thể dùng làm việc lớn có nhiều lợi ích. Cũng vậy, dầu Bồ Tát lúc sơ phát tâm cũng chẳng nên khinh.

Này Xá Lợi Phất! Nay Phật vì Chư Đại Bồ Tát mà nói những ví dụ như vậy. Bồ Tát được nghe những ví dụ ấy thì được an lạc.

Muốn tuyên lại nghĩa ấy Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Nếu muốn chứng được Vô Thượng đạo

Phải nên dứt trừ lòng nghi hối

Người siêng tu lòng tin vô thượng

Thì có thể được đạo bồ đề

Nếu người tu tập tịnh ấn định

Tuyên nói các pháp như cảnh mộng

Trong vô lượng đời tịnh tâm mình

Thì có thể chứng Chánh Giác đạo

Đạo Phật được chẳng phải thân nghiệp

Cũng chẳng phải khẩu nghiệp ý nghiệp

Vô vi chân thiệt tánh cũng vậy

Vì thế chẳng thể ví dụ nói

Phật đạo không đối chẳng thấy được

Chẳng phải nhãn thức như hư không

Chẳng phải tất cả các tình căn

Chẳng phải cảnh giới của các căn

Chẳng phải tướng ấm giới lục nhập

Chẳng phải tâm ý thọ tưởng thức

Chẳng phải cảnh của tri của trí

Vì thế Phật cảnh chẳng biết được

Chư Phật đại bi khó nghĩ bàn

Vô lượng vô biên không chướng ngại

Không chữ không tiếng chẳng nói được

Vì thế không ai biết Phật Giới

Nếu chúng sanh trong vô lượng đời

Gần kế thiện hữu nghe chánh pháp

Nghe rồi liền được đại phước đức

Thường thọ diệu lạc như Chư Phật

Tất cả các ma chẳng hại được

Các căn điều phục thường an lạc

Hay dùng phương tiện phá tứ ma

An trụ như pháp hành Phật Đạo

Nếu tu đạo bồ đề như vậy

Thì được bồ đề vì người nói

Hay độ chúng sanh biển sanh tử

Hay phá tất cả đại tà kiến

Liền được vô thượng các tướng hảo

Thành tựu thập lực tứ vô úy

Hay biết chúng sanh phiền não hành

Hay phá tất cả cõi sanh tử

Nếu có Bồ Tát siêng tinh tiến

Thì hay phá hoại các phiền não

Như lửa đốt cháy gỗ cỏ khô

Tâm bồ đề đốt được phiền não.

***

 

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần