Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Bốn - Pháp Hội Hải Huệ Bồ Tát - Phần Mười Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI BỐN

PHÁP HỘI HẢI HUỆ BỒ TÁT  

PHẦN MƯỜI MỘT  

Hải Huệ Đại Bồ Tát bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là bố thí mà gọi là thanh tịnh trí huệ và thanh tịnh phương tiện?

Đức Phật nói: Này Hải Huệ! Bồ Tát nếu thấy không có ngã chúng sanh thọ mạng sĩ phu thì gọi là huệ. Nếu tu không vô tướng vô nguyện đem các thiện căn nguyện cùng chúng sanh hồi hướng bồ đề thì gọi là phương tiện.

Còn nữa, này Hải Huệ! Biết các chúng sanh căn hạ trung thượng thì gọi là huệ. Biết rồi tùy ý mà vì họ thuyết pháp thì gọi là phương tiện. Vì thanh tịnh trí huệ nên dầu đi trong Tam Giới mà không bị nhiễm trước. Vì thanh tịnh phương tiện nên dầu tu nhị thừa mà chẳng chứng quả nhị thừa.

Này Hải Huệ! Nếu Bồ Tát chẳng bị tất cả phiền não nhiễm ô thì gọi là huệ, có thể điều phục chúng sanh khiến họ hồi hướng vô thượng bồ đề thì gọi là phương tiện.

Bồ Tát phát nguyện đều làm cho chúng sanh được vô tận của cải vô tận phước đức tăng trưởng thiện căn, tất cả hàng hữu học vô học Thanh Văn, Duyên Giác và tất cả Bồ Tát tùy ý đắc pháp, đây gọi là tịnh phương tiện.

Bồ Tát nếu có thể thọ trì tất cả Phật Pháp rộng phân biệt diễn nói, vô cùng tận diễn nói, vô chướng ngại diễn nói, chẳng luống diễn nói, tùy thích diễn nói, đây gọi là tịnh huệ.

Đại Bồ Tát Đời đời sanh chỗ nào trọn chẳng mất tâm vô thượng bồ đề, đây gọi là tịnh huệ. Đời đời ở chỗ nào tu tập pháp lành đều nguyện cùng chúng sanh chung, đây gọi là tịnh phương tiện. Do tịnh huệ biết tâm bồ đề vô trụ vô căn. Do tịnh phương tiện giáo hóa chúng sanh đến bồ đề.

Hải Huệ Đại Bồ Tát bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát có đủ hai thứ tịnh như vậy nên tất cả nghiệp hạnh được làm không gì chẳng phải là bồ đề.

Tại sao vậy?

Vì trong tất cả pháp đều có ám chướng. Vì pháp ám chướng nên tức là bồ đề. Vì vậy nên Bồ Tát thường chẳng xa lìa bồ đề vậy.

Bồ Tát nếu nghĩ rằng tôi lìa bồ đề, nên biết người này chẳng được bồ đề. Bồ Tát nếu nghĩ rằng tôi có bồ đề, người này ở nơi bồ đề có tịnh có bất tịnh. Nếu có thể quán xét các pháp như vậy thì được bồ đề, tức là tịnh trí phương tiện vậy.

Đức Phật nói: Này Hải Huệ! Quá khứ vô lượng A tăng kỳ kiếp có Phật xuất thế hiệu Vô Biên Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, vô thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, Quốc Độ ấy tên Bất Thuấn, kiếp ấy tên Quang Vị.

Lúc Đức Phật Vô Biên Quang mới đến ngồi Đạo Tràng bồ đề chưa thành Phật, mười phương Thế Giới bậc Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ, bậc Bồ Tát bất thối chuyển đều đồng ngó thấy và đồng đến chỗ ấy đem các thứ hoa cúng dường, hoa ấy ở hư không cao bảy cây Đa La.

Lúc thành Phật Đạo rồi, Vô Biên Quang Như Lai phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương Thế Giới.

Mười phương Chư Thiên phần đông thấy Phật Quang rồi đều nói rằng: Phật Vô Biên Quang chân thiệt xuất thế. Quốc Độ Bất Thuấn trang nghiêm lộng lẫy như Cung Trời Tha Hóa Tự Tại. Kiếp ấy ban sơ quá mười ngàn năm có Phật xuất thế hiệu Quang Vị, do đây mà kiếp ấy có tên là Quang Vị.

Trong kiếp Quang Vị có mười bốn ức Chư Phật Như Lai xuất thế. Quốc Độ Bất Thuấn ấy có chín vạn sáu ngàn tiểu quốc, mỗi tiểu quốc ngang rộng tám vạn bốn ngàn do tuần, có tám vạn bốn ngàn thành, thành ấy ngang rộng một do tuần. Mỗi thành dân cư có tám vạn bốn ngàn người.

Quốc Độ Bất Thuấn ấy có đủ các sự như vậy. Cõi nước ấy thuần dùng bốn báu trang sức, đó là vàng, bạc, lưu ly và pha lê, có nhiều món uống ăn không hề thiếu. Nhân dân cõi ấy không có ngã ngã sở như người Uất Đơn Việt ở phương Bắc.

Phật Vô Biên Quang thọ mạng đủ mười trung kiếp. Chúng Thanh Văn có chín vạn sáu ngàn ức. Chúng Bồ Tát có một vạn hai ngàn ức. Trong Quốc Độ ấy có thành tên Lạc và thành tên Tịnh. Đức Phật Vô Biên Quang xuất thế tại thành Tịnh rồi qua ở tại thành Lạc.

Quốc Độ ấy có Vua tên là Tịnh Thanh đủ bảy báu thống lãnh cả Đại Thiên Thế Giới. Hậu cung thể nữ có ba vạn sáu ngàn xinh đẹp như Thiên Nữ. Có mười vạn Vương Tử hùng mãnh dũng kiện, mỗi Vương Tử đều có sức lực nửa Na La Diên, thân đủ hai mươi tám tướng tốt, tất cả đều phát tâm vô thượng bồ đề.

Có tám vạn Vương Nữ, cũng đều thanh tịnh xinh đẹp như Thiên nữ, cũng đều phát tâm vô thượng bồ đề.

Trải qua hai đại kiếp, Vua Tịnh Thanh cúng dường đức Vô Biên Quang Như Lai và Chúng Thanh Văn, Chúng Bồ Tát.

Nhà Vua vì Đức Như Lai mà xây dựng bảo phường rộng lớn năm do tuần, trong bảo phường có mười vạn bảo lâu để cúng dường Chư Tăng. Lúc ấy Thánh Vương cùng các quyến thuộc đều tu phạm hạnh thanh tịnh.

Thuở ấy đức Vô Biên Quang Như Lai giáo hóa vô lượng chúng sanh an trụ pháp đại thừa, cũng có vô số chúng sanh nơi Thanh Văn thừa.

Thánh Vương Tịnh Thanh sau thời gian cúng dường Phật rồi cùng quyến thuộc đồng đến chỗ Đức Phật Vô Biên Quang đầu mặt đảnh lễ chân Phật hữu nhiễu cung kính quỳ dài chắp tay bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn!

Thế nào là Bồ Tát tu hành đại thừa chẳng theo lời người?

Thế nào là Bồ Tát sanh được cứu cánh?

Thế nào là Bồ Tát được vô sở trụ?

Thế nào là Bồ Tát được vô động huệ?

Thế nào là Bồ Tát được thanh tịnh huệ?

Thế nào là Bồ Tát thần lực hay thấy xa?

Thế nào là Bồ Tát các căn mãnh lợi?

Thế nào là Bồ Tát đầy đủ Phật độ?

Thế nào là Bồ Tát hành bất phóng dật?

Thế nào là Bồ Tát nghe pháp thậm thâm lòng chẳng kinh sợ?

Thế nào là Bồ Tát được tên là Bồ Tát?

Đức Vô Biên Quang Như Lai nói: Này Đại Vương!

Có bốn pháp tu hành đại thừa chẳng theo lời người:

Một là có lòng tin Thánh ra khỏi Thế Giới.

Hai là có trí huệ quán sát pháp tánh.

Ba là có đại thần thông.

Bốn là Tu Tịnh tinh tiến để giáo hóa các chúng sanh.

Này Đại Vương!

Bồ Tát có đủ bốn pháp như vậy tu hành đại thừa chẳng theo lời người.

Bồ Tát còn có bốn pháp sanh được cứu cánh:

Một là biết rõ thiện pháp để điều phục tâm.

Hai là chẳng tham trước sự vui của mình.

Ba là vì các chúng sanh mà tu tập từ bi.

Bốn là thường ưa thích pháp đại thừa.

Này Đại Vương! Bồ Tát có bốn pháp được vô sở trụ:

Một là tịnh tâm.

Hai là tịnh trang nghiêm.

Ba là lìa hư dối.

Bốn là tu kiên huệ để đủ phước đức.

Này Đại Vương! Bồ Tát còn có bốn pháp được tịnh trí huệ:

Một là tịnh nhãn.

Hai là dùng tứ nhiếp pháp để nhiếp thủ các chúng sanh.

Ba là tịnh thân đủ ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp.

Bốn là tịnh Phật Độ quán tịnh pháp giới.

Này Đại Vương! Bồ Tát còn có bốn pháp có thể được thấy xa, các căn mãnh lợi:

Một là niệm dưới cội bồ đề chẳng bỏ tâm bồ đề.

Hai là niệm Phật trí huệ, cũng chẳng trụ trước nơi trí.

Ba là niệm pháp Thân tu tập không vô tướng vô nguyện.

Bốn là niệm Phật Niết Bàn, ở trong sanh tử không có nhàm hối.

Này Đại Vương! Còn có bốn pháp Bồ Tát có đủ Phật Độ hành bất phóng dật:

Một là thọ thân Thiên Đế Thích để giáo hóa Chư Thiên khiến họ chẳng phóng dật.

Hai là thọ thân Đại Phạm Thiên Vương để giáo hóa hàng Phạm Thiên khiến họ chẳng phóng dật.

Ba là thọ Chuyển Luân Thánh Vương thân để giáo hóa nhân dân khiến họ chẳng phóng dật.

Bốn là thọ thân Đại Thần, Trưởng Giả để giáo hóa mọi người khiến họ chẳng phóng dật.

Này Đại Vương! Còn có bốn pháp Bồ Tát nghe pháp thậm thâm không có lòng kinh sợ:

Một là thường thân cận thiện tri thức.

Hai là thiện tri thức thường nói pháp thậm thâm cho.

Ba là khéo tư duy tốt các nghĩa pháp thậm thâm.

Bốn là như chánh pháp mà trụ.

Này Đại Vương! Còn có bốn pháp được danh hiệu Bồ Tát:

Một là thường cầu Ba la mật.

Hai là vì các chúng sanh mà tu tập tâm đại bi.

Ba là luôn ưa thích cầu Phật Pháp.

Bốn là lúc giáo hóa chúng sanh không có lòng nhàm hối.

Lúc Thánh Vương Tịnh Thanh nghe Đức Vô Biên Quang nói Pháp rồi, Vua cùng các quyến thuộc đều được vô sanh pháp nhẫn, liền xả bỏ Quốc Độ xuất gia trong Phật Pháp siêng tu tập đạo hạnh.

Đức Vô Biên Quang Như Lai nói: Này Đại Vương! Nay Nhà Vua xuất gia tức là báo ơn Phật. Nếu ai sanh lòng tin xuất gia như vậy thì gọi là báo ơn Phật rất lớn, là công đức lớn có nhiều lợi ích.

Này Đại Vương! Bồ Tát xuất gia có hai mươi bốn sự lợi ích:

Một là lìa bỏ thế sự được đại tự tại.

Hai là bỏ lìa phiền não được giải thoát.

Ba là thân mặc y phục nhuộm màu được đạo không ô nhiễm.

Bốn là có đủ bốn sự được tứ thánh chủng.

Năm là thích hành Đầu Đà xa lìa tất cả đại dục ái dục.

Sáu là chẳng bỏ giới tụ được vui nhiều nhân Thiên.

Bảy là chẳng bỏ bồ đề chứng được Phật Pháp.

Tám là thường ưa thích tịch tĩnh lìa nói luận thế sự.

Chín là vì chẳng trụ trước nơi pháp nên được đại tịnh tâm.

Mười là có đủ thiền chỉ để được thiền định.

Mười một là ưa cầu đa văn vì được trí huệ vậy.

Mười hai là phá hoại kiêu mạn vì được trí huệ vậy.

Mười ba là phá trừ tà kiến vì được chánh kiến vậy.

Mười bốn là chẳng khởi giác quán vì chân thiệt biết các pháp giới vậy.

Mười năm là bình đẳng xem chúng sanh vì được đại từ vậy.

Mười sáu là giáo hóa các chúng sanh tâm không mỏi mệt vì được đại bi vậy.

Mười bảy là chẳng tiếc thân mạng vì hộ chánh pháp vậy.

Mười tám là tịch tĩnh tâm mình vì được thần thông vậy.

Mười chín là thường niệm Phật vì thấy Phật vậy.

Hai mươi là tu thiện tư duy vì được mười hai duyên thâm trí huệ vậy.

Hai mươi mốt là được thuận nhẫn.

Hai mươi hai là được vô sanh pháp nhẫn.

Hai mươi ba là tin tất cả công đức.

Hai mươi bốn là được Phật trí huệ.

Thánh Vương Tịnh Thanh nghe thọ pháp ấy rồi chuyển đem dạy lại tất cả nam nữ quyến thuộc thần dân.

Lúc ấy trong Quốc Độ Bất Thuấn có chín vạn chín ngàn ức người đều xuất gia.

Tỳ Kheo Tịnh Thanh đã xuất gia rồi lại bạch Phật Vô Biên Quang rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi thế nào được gọi là xuất gia?

Đức Vô Biên Quang nói: Này Tỳ Kheo! Ông tên là Tịnh Thanh, phải nên tịnh tự giới, tự giới đã tịnh rồi thì gọi là Tỳ Kheo, gọi là xuất gia.

Nghe Phật dạy rồi, Tỳ Kheo Tịnh Thanh lòng thích tịch tĩnh tư duy như vậy: Giới ấy tức là nhãn, quán nhãn không tức là tịnh giới, tịnh giới ấy tức là Phật Độ. Như nhãn quán nhĩ tỷ thiệt thân ý cũng vậy. Ý ấy tức là giới, quán ý không tức là tịnh giới, tịnh giới ấy tức là Phật Độ, tức là nhất giới, tức là không giới, tức là chúng sanh giới, tức là vô tướng giới, tức là vô nguyện giới, tức là vô tác giới, tức là vô vi giới.

Tịnh Thanh Tỳ Kheo quán sát như vậy rồi liền được thân khinh tâm khinh. Thân tâm đã khinh rồi được vô lượng thần thông, được thần thông rồi được lạc thuyết vô ngại Đà La Ni môn.

Này Hải Huệ! Tỳ Kheo Tịnh Thanh thuở đức Vô Biên Quang Như Lai ấy là ai chăng?

Nay chính là thân ông vậy, còn nam nữ quyến thuộc ấy, nay là đại chúng Bồ Tát được ông dắt đến nghe pháp tại đây vậy. Lúc Đức Thế Tôn nói pháp ấy, có vạn tám ngàn người phát tâm vô thượng bồ đề, tám ngàn chúng sanh được vô sanh nhẫn.

Này Hải Huệ! Nếu ai muốn được vô thượng bồ đề thì nên đúng như pháp mà nói và đúng như nói mà trụ.

Thế nào gọi là đúng như pháp mà nói và đúng như nói mà trụ?

Này Hải Huệ! Nếu có người nói tôi sẽ làm Phật, rồi mời các chúng sanh đến hứa cho pháp vị. Mời hứa rồi, mà người ấy chẳng thể thọ trì đọc tụng phân biệt giải nói Kinh Điển vi diệu, chẳng thể hộ trì thanh tịnh cấm giới, chẳng siêng tu tinh tiến, chẳng tu tri túc, ở trong thiện pháp được phần ít đã biết đủ. Người như vậy gọi là kẻ khi dối chẳng đúng như pháp nói, chẳng đúng như pháp trụ.

Này Hải Huệ! Nếu có người nói rằng tôi sẽ làm Phật, rồi mời các chúng sanh đến hứa cho pháp vi. Mời hứa rồi, người ấy hay thọ trì đọc tụng phân biệt giải nói Kinh Điển vi diệu, hộ trì cấm giới thanh tịnh, siêng tu tinh tiến, thiểu dục tri túc, được nhiều thiện pháp cũng chẳng sanh lòng thỏa đủ. Người này gọi là chẳng khi dối đúng như pháp nói đúng như pháp trụ.

Này Hải Huệ! Ví như Quốc Vương có đông tân khách, mời rồi mà chẳng sắm sửa đồ dùng cúng dường, lúc tân khách đã đến nơi nói là chưa sắm sửa. Tân khách đều nói rằng: đã nhận lời mời của Đức Vua nên ở nhà chẳng sắm món ăn uống, nay theo lời Đức Vua mời mà đến lại không có chi ăn dùng, họ đồng quở trách giận hờn sầu não khóc lóc.

Này Hải Huệ! Bồ Tát mời các chúng sanh hứa cho pháp thực rồi chẳng cầu đa văn, chẳng trì giới tinh tiến tu hành ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo. Vì vậy nên chúng thánh quở trách, hàng nhân thiên than khóc.

Này Hải Huệ! Bồ Tát nếu có thể đúng pháp làm, đúng như chỗ làm mà nói, chẳng nên khi dối tất cả chúng sanh.

Lại này Hải Huệ! Còn có các chúng sanh thỉnh cầu Bồ Tát vì họ thuyết pháp. Bồ Tát hứa khả, sẽ thuyết pháp cho họ. Sau khi hứa Bồ Tát phóng dật. Chúng sanh đã thấy Bồ Tát phóng dật liền khuyên nhắc.

Được khuyên nhắc mới thuyết pháp cho họ. Lúc thuyết pháp hoặc có người hỏi nghĩa thậm thâm. Vì phóng dật nên Bồ Tát không đáp được. Vì không đáp được nên lòng hổ thẹn. Vì hộ thân tâm mình nên gạt chúng sanh mà bỏ lìa họ.

Này Hải Huệ! Bồ Tát nếu muốn đúng như pháp được nói mà trụ, không tự tiếc thân tâm để hộ trì chúng sanh.

Này Hải Huệ! Về quá khứ có một Sư Tử Vương ở trong hang núi sâu thường nghĩ rằng: Ta là Vua của tất cả loài thú, có đủ sức xem coi giữ gìn tất cả thú.

Trong núi ấy có hai con khỉ cùng sanh hai khỉ con đến Sư Tử Vương nói rằng: Vua hay thủ hộ tất cả các thú, nay chúng tôi đem hai khỉ con này giao phó cho Vua, chúng tôi muốn đi xứ khác kiếm ăn. Sư Tử Vương liền hứa khả. Hai khỉ để hai con lại giao cho Sư Tử Vương rồi đi.

Bấy giờ trong núi ấy có một kên kên chúa thấy Sư Tử Vương ngủ liền bắt hai khỉ con để ở chỗ hiểm.

Sư Tử Vương thức dậy biết liền hướng kên kên chúa nói kệ rằng:

Nay ta thưa cùng chúa kên kên

Cầu mong chí tâm nhận lời tôi

Xin nể mặt tôi tha hai khỉ

Cho tôi khỏi thẹn vì thất tín.

Kên kên chúa nói kệ đáp Sư Tử Vương rằng:

Ta hay du hành bay hư không

Đã qua chỗ người lòng không sợ

Nếu quyết muốn hộ hai khỉ con

Đổi cho ta người phải xả thân.

Sư Tử Vương đáp:

Nay ta vì hộ hai khỉ con

Xả thân chẳng tiếc như cỏ khô

Nếu ta hộ thân mà nói dối

Sao được gọi là như thuyết hành.

Nói kệ xong, Sư Tử Vương lên gộp cao muốn xả thân mình.

Kên kên chúa liền kêu Sư Tử Vương mà nói kệ rằng:

Nếu vì người khác xả mạng mình

Kẻ ấy liền hưởng vui vô thượng

Nay ta thả hai khỉ con này

Mong Sư Tử Vương đừng tự hại.

Này Hải Huệ! Thuở ấy Sư Tử Vương nay là thân ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, khỉ đực ấy nay là Đại Ca Diếp, khỉ cái ấy nay là Thiện Hộ Tỳ Kheo Ni, hai con khỉ ấy nay là A Nan và La Hầu La, còn kên kên chúa ấy hiện nay là Xá Lợi Phất vậy.

Này Hải Huệ! Bồ Tát vì hộ kẻ y chỉ mình mà chẳng tiếc thân mạng.

Này Hải Huệ! Thế nào gọi là đúng như lời mà trụ?

Bồ Tát nếu nói ta sẽ bố thí, liền thật hành bố thí rộng lớn. Đây gọi là đúng như lời mà trụ.

Bồ Tát nếu nói ta có thể trì giới, liền giáo hóa tất cả đồng hộ giới như mình. Đây gọi là đúng như lời mà trụ.

Bồ Tát nếu nói ta tu nhẫn nhục, liền giáo hóa chúng sanh đồng tu nhẫn nhục. Đây gọi là Bồ Tát đúng như lời mà trụ.

Bồ Tát nếu nói ta siêng tinh tiến tu hành Phật Pháp, liền giáo hóa mọi người đồng siêng tinh tiến tu hành Phật Pháp. Đây gọi là Bồ Tát đúng như lời mà trụ.

Bồ Tát nếu nói ta tu thiền định, liền giáo hóa chúng sanh xả trù loạn tâm tu tập thiền định. Đây gọi là Bồ Tát đúng như lời mà trụ.

Bồ Tát nếu nói ta tu trí huệ, liền phân biệt đúng như pháp. Đây gọi là Bồ Tát đúng như lời nói mà trụ.

Bồ Tát nếu nói ta nên phá hoại tất cả ác pháp, liền tu tập tất cả thiện pháp. Đây gọi là đúng như lời mà trụ.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần