Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Hai Mươi Hai - Pháp Hội đại Thần Biến - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ HAI MƯƠI HAI
PHÁP HỘI ĐẠI THẦN BIẾN
PHẦN HAI
Nghe kệ xong lòng Vua đối với vương vị tự tại tất cả ái dục thảy đều rời bỏ liền bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi nguyện ở trong luật pháp lành của Phật xuất gia thọ giới.
Đức Đẳng Tu Di Như Lai bảo rằng: Này Đại Vương! Xuất gia không họa hoạn mà ta thường khuyên gắng, mến luyến ở nhà chẳng phải là điều mà Phật hứa khả. Ở nơi Vương vị nhà Vua còn ái trước ta sẽ dạy nhà Vua an trụ như pháp.
Vua Tịnh Trang Nghiêm bảo Ngàn Vương Tử trong các con ai có thể nối giữ vương nghiệp?
Các Vương Tử đều nói chúng tôi thích xuất gia xin Vua cha cho phép. Vua bảo nếu các con xuất gia cả thời nhân dân Quốc Độ bốn thiên hạ này lấy ai dưỡng dục. Nếu trong các con người nào đại bi vững chắc nên ra làm Vua khiến tất cả chúng sanh an trụ pháp lành.
Tron ngàn Vương Tử có một vị tên Niệm Đại Bi nói kệ đáp lời Phụ Vương:
Phụ vương nơi Phật Pháp
Được nhiều công đức lành
Tôi xin lãnh ngôi Vua
Cũng sẽ học như vậy
Tôi thường tu phạm hạnh
Trọn đời giữ tám giới
Tôi sẽ chẳng uống rượu
Chẳng thoa đeo hương hoa
Thân bỏ đồ trang sức
Chẳng ngồi nằm tòa vàng
Chân chẳng mang giầy vàng
Đầu chẳng đội mão báu
Chẳng mặc y phục đẹp
Chẳng xem những kỹ nhạc
Chẳng ngắm điểu thú lạ
Chẳng gần các cung nữ
Tuần khắp bốn thiên hạ
Tuyên hành mười đạo lành
Quở trách lỗi tại gia
Khen ngợi pháp xuất gia
Bỏ tự tại kiêu ngạo
Thân cận Phật Pháp Tăng
Chẳng bỏ tâm bồ đề
Thường nhàm chán ba cõi
Dùng thí ái lợi hành
Đồng sự nhiếp chúng sanh
Khắp khiến ở đại thừa
Đều sẽ được thành thục
Ngày đêm cả sáu thời
Sẽ qua đến chỗ Phật
Để được nghe chánh pháp
Cúng dường Đức Như Lai.
Đức Đẳng Tu Di Như Lai khen Vương Tử Niệm Đại Bi: Lành thay, lành thay! Này thiện nam tử! Vì ông thấy pháp bình đẳng nên an trụ đại bi chánh tín nơi xuất gia, trong hàng Bồ Tát tại gia ông là tối thắng, cùng với công đức xuất gia không khác. Vua Tịnh Trang Nghiêm liền lập Niệm Đại Bi nối ngôi Vua, rồi cùng chín trăm chín mươi chín Vương Tử theo Phật xuất gia.
Khi đã xuất gia rồi đức Đẳng Tu Di Như Lai dạy cho pháp thần biến như vậy, sau đó chẳng bao lâu được ngũ thần thông chứng niệm tổng trì đa văn trí huệ.
Niệm Đại Bi trong ngày rằm thọ ngôi quán đảnh rồi cũng đem pháp ấy tuyên bày giáo hóa cho tất cả chúng sanh trong bốn châu thiên hạ.
Có chín mươi hai câu chi chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề đồng theo Phật xuất gia tu hành an trụ đại thừa được bất thối chuyển.
Này Xá Lợi Phất! Ông xem pháp ấy có vô lượng công đức thành thục tất cả thiện căn chúng sanh.
Này Xá Lợi Phất! Vua Tịnh Trang Nghiêm thuở xưa là Thương Chủ Thiên Tử đây, Bồ Tát Pháp Tốc Tật ấy nay là Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát. Ngàn Vương Tử ấy nay là ngàn Phật trong hiền kiếp. Chính Vương tử Niệm Đại Bi ấy nay là thân ta đây vậy.
Này Xá Lợi Phất! Chư Bồ Tát ấy thâm tâm chánh hạnh chẳng phóng dật nên được vô thượng bồ đề. Lúc Đức Phật nói pháp tu hành thuở xưa ấy, có ba vạn hai ngàn Thiên Tử phát tâm vô thượng bồ đề.
Tôn Giả Xá Lợi Phất nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: Ngài và Thương Chủ Thiên Tử đã lâu tu phạm hạnh cúng dường nhiều Chư Phật trồng các căn lành.
Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát nói: Này Đại Đức! Luận về phạm hạnh gọi là Tám Thánh Đạo là pháp hữu vi, tôi tức vô vi nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh. Luận về phạm hạnh gọi là có sở hành, tôi không sở hành nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh.
Lại phạm hạnh ấy gọi là hai tướng, tôi không hai tướng nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh.
Lại phạm hạnh ấy gọi là diệt phiền não, tôi không phiền não cũng không sở diệt nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh. Vì lung chạy theo ngũ dục nên nói phạm hạnh, với ngũ dục tôi vốn chẳng hành nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh. Siêu quá ma đạo gọi là phạm hạnh, tôi đương an trụ trong ma đạo nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh.
Thành tựu thiện pháp gọi là phạm hạnh, nơi thiện ác tôi đều vô sở đắc nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh. Chánh vị an trụ của Thanh Văn và Duyên Giác gọi là phạm hạnh, tôi không sở chứng nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh. Tu Niết Bàn đạo gọi là phạm hạnh, nơi Niết Bàn tôi không nguyện cầu nên tôi chẳng lâu tu phạm hạnh.
Lại này Tôn Giả Xá Lợi Phất! Tôn Giả nói tôi cúng dường nhiều Chư Phật.
Tôn Giả cho rằng Đức Như Lai có thể cúng dường chăng?
Tại sao?
Đức Như Lai chẳng phải sắc cũng chẳng thấy được thì sao lại cúng dường được. Đức Như Lai chẳng phải thọ vì dứt tất cả thọ, Đức Như Lai chẳng phải tưởng vì rời lìa tất cả kiết sử, Đức Như Lai chẳng phải hành vì cứu cánh vô tác, Đức Như Lai chẳng phải thức vì ra khỏi tâm ý, làm sao cúng dường được Như Lai.
Lại Đức Như Lai hành nơi tánh không chẳng phải nhãn sắc giới, Như Lai trụ vô tướng tế chẳng phải nhỉ thanh giới, Như Lai rời hai tướng chẳng phải tỷ hương giới, Như Lai không tướng khả tri chẳng phải thiệt vị giới, Như Lai không tướng chướng ngại chẳng phải thân xúc giới, Như Lai nhập vào bình đẳng chẳng phải ý pháp giới, làm sao cúng dường được Như Lai.
Lại Như Lai gọi là pháp giới, gọi là như như, vào thiệt tế, trụ đại không, chẳng động bổn tánh, dứt các hí luận, không chỗ phan duyên, chẳng trụ nơi thức, chẳng y tam giới, chẳng trụ đời này đời sau, thường tịch cực tịnh, rời thân khẩu ý, không hình không tướng, không hủy không dự, không lậu không thất, như hư không, khắp tất cả, làm sao có thể cúng dường Như Lai được.
Lại này Tôn Giả! Như lời Tôn Giả nói trồng các căn lành. Căn lành ấy chẳng phải gốc thân kiến, chẳng phải gốc tham sân, chẳng phải điên đảo, chẳng phải trụ gốc ngũ uẩn lục nhập thất thức, chẳng phải gốc tám tà chín não mười nghiệp đạo bất thiện, căn lành ấy chẳng phải gốc giới học tâm học huệ học.
Chẳng phải gốc chánh xu đạo, chẳng phải gốc minh giải thoát, chẳng phải gốc Tứ Đế lục thông, chẳng phải gốc cửu thứ đệ định thập vô học, chẳng phải gốc ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần. Lại căn lành ấy chẳng phải gốc kiết sử, chẳng phải gốc chướng ngại, chẳng phải gốc ác tác, chẳng phải gốc sanh diệt kiến, đoạn thường kiến, ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, chẳng phải gốc uẩn ma, phiền não ma, tử ma, thiên ma.
Chẳng phải gốc vọng niệm, vô minh hành thức danh sắc lục nhập xúc thọ ái thủ hữu sanh lão tử ưu não, chẳng phải gốc dục sắc, Vô Sắc Giới, chẳng phải gốc bố thí trì giới nhẫn nhục tinh tấn thiền định trí huệ, chẳng phải gốc từ bi hỉ xả, chẳng phải gốc sở chứng của Thanh Văn Duyên Giác.
Luận về căn lành của Bồ Tát là gốc nhất thiết trí tâm vô sở trụ gốc không tự tác tha tác, gốc nhẫn nhục điều phục, gốc trang nghiêm thân khẩu ý, gốc đại từ đại bi, gốc thành thục tất cả chúng sanh, gốc nhiếp thọ tất cả pháp, gốc thành thục tất cả Phật Pháp, gốc chẳng dứt giống Tam Bảo.
Gốc bỏ tất cả sở hữu chẳng cầu quả báo, gốc chứa họp các pháp lành chẳng cầu Thích Phạm, gốc phát đại tinh tấn chẳng thích Tiểu Thừa, gốc tu tập thiền định chẳng ham say, gốc lấy không gì bỏ để hành trí huệ, gốc vào khắp các hành để tu phương tiện.
Gốc đủ Thập lực Tứ vô úy, gốc được Đà La Ni vô ngại biện, gốc được sức thần thông thanh tịnh Phật Độ, gốc đến ngồi cội bồ đề chuyển pháp luân.
Lúc Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói ba thứ nghĩa quyết định ấy, tất cả đại chúng đều khen thiện tai đem các thứ hoa đẹp rải lên Đức Thế Tôn và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát mà nói rằng:
Nếu trong Cõi Phật không có Văn Thù Sư Lợi thì Phật chẳng xuất thế, chẳng phải Văn Thù Sư Lợi thì chẳng thành thục được căn rộng lớn cho tất cả chúng sanh.
Nếu ai được nghe Pháp Môn của Văn Thù Sư Lợi nói mà chẳng kinh sợ thì xa rời tất cả ma nghiệp chướng ngại, được quang minh thanh tịnh nơi đại thừa này.
Bấy giờ Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng khen Thương Chủ Thiên Tử: Lành thay, lành thay! Như lời ông nói.
Này Thiên Tử! Ông nghe thần biến của Văn Thù Sư Lợi nói mà có thể biết rõ thì không còn kinh sợ các thần biến khác.
Tại sao?
Vì sự Đại Kinh bố của tất cả thế gian là trong ý tưởng thường mà nói vô thường, trong ý tưởng lạc mà nói khổ, trong ý tưởng ngã mà nói vô ngã, trong ý tưởng tịnh mà nói bất tịnh, trong ý tưởng có mà nói không có, trong các kiến chấp mà nói rỗng không, trong ý tưởng tịch tĩnh mà nói vô tướng, trong ba cõi mà nói vô nguyện, nơi ngã ngã sở mà nói không chấp trước.
Nếu ở trong đây mà không kinh sợ thì gọi là an trụ chánh điều phục. Tại sao, vì nếu sanh kinh sợ thì ở nơi pháp ấy chẳng thọ trì được.
Đó là chấp trước nơi ngã và ngã sở, nếu không chấp trước thì vô sở trụ, nếu vô sở trụ thì vô sở động, nếu vô sở động thì vô lai khứ, nếu vô lai khứ thì vô sở thọ, nếu vô sở thọ thì vô sở thủ, nếu vô sở thủ thì vô điên đảo, nếu vô điên đảo thì vô tà kiến, nếu vô tà kiến thì vô chánh tín, nếu vô chánh tín thì vô chánh kiến, nếu vô chánh kiến thì vô chánh định.
Nếu vô chánh định thì vô loạn tâm, nếu vô loạn tâm thì vô trụ xứ, nếu vô trụ xứ thì vô kiến lập, nếu vô kiến lập thì vô thức tướng, nếu vô thức tướng thì vô tư duy, nếu vô tư duy thì vô sở đắc, nếu vô sở đắc thì vô phan duyên, nếu vô phan duyên thì vô phân biệt, nếu vô phân biệt thì chẳng thấy tự tha, vì chẳng thấy tự tha thì không tương tục.
Vì không tương tục thì không nhiệt não, vì không nhiệt não thì không phiền não nhân, vì không phiền não nhân thì được thấy quang minh, vì được thấy quang minh nên được trí huệ, vì được trí huệ nên được quảng đại tâm, vì được quảng đại tâm nên ma không được dịp, vì xô dẹp ma nên không chướng ngại, vì không chướng ngại thì là hiện tiền được tất cả Phật Pháp.
Như vậy, này Thiên Tử! Nơi tất cả pháp vô sanh vô tác mà khai thị diễn thuyết thì gọi là tuyên nói đại thần biến.
Tôn Giả Xá Lợi Phất hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: Như chỗ tôi được hỏi, có phải Ngài đều dùng bí mật thuyết chăng?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Này Tôn Giả! Tất cả các pháp văn tự nhóm họp giả danh an lập. Văn tự vô tận tùy theo chỗ ưa thích mà tuyên nói, các pháp vô tánh tùy theo chỗ đáng nên hiểu.
Này Tôn Giả! Tất cả pháp tự tánh ly không tích tập không sở kiến, chỉ tùy theo chỗ ưa thích rồi như chỗ đáng nên mà tuyên thuyết, nhưng tất cả pháp không từ đâu đến cũng không chỗ đi, chẳng tại phương chẳng rời phương, không hợp không tan.
Nếu dùng văn tự tuyên nói, tất cả Phật Pháp tất cả chúng sanh pháp chẳng từ thân phát xuất chẳng từ tâm phát xuất, từ nhân duyên sanh. Như văn tự ấy không có tích tập, tâm và tâm sở pháp cũng không tích tập. Như tâm tâm sở không tích tập, tất cả phiền não chướng ngại cũng không tích tập.
Nếu phiền não chướng ngại không tích tập, trí huệ cũng không tích tập. Bởi thế nên phiền não và trí huệ đều xả ly cả hai, vì phiền não và trí huệ đều vô sở trụ vậy. Đây gọi là tuyên nói đại thần biến.
Thương Chủ Thiên Tử bạch Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: Những gì là Bồ Tát trí?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Này Thiên Tử! Khổ trí là Bồ Tát trí vì chẳng chán các uẩn. Tập trí là Bồ Tát trí vì chứa họp căn lành. Diệt trí là Bồ Tát trí vì thị hiện có sanh.
Đạo trí là Bồ Tát trí vì rời lìa ác đạo. Nhân trí là Bồ Tát trí vì chỗ làm chẳng hư hoại. Duyên trí là Bồ Tát trí vì dứt sanh tử. Phật trí là Bồ Tát trí vì khiến chứng nhập. Duyên sanh trí là Bồ Tát trí vì không chấp trước.
Uẩn trí là Bồ Tát trí vì trừ uẩn ma. Giới trí là Bồ Tát trí vì pháp giới bình đẳng. Xứ trí là Bồ Tát trí vì khéo quán không tụ. Thí trí là Bồ Tát trí vì không phi thời.
Giới trí là Bồ Tát trí vì nhiếp các kẻ phá giới. Nhẫn trí là Bồ Tát trí vì thủ hộ chúng sanh. Tinh tấn trí là Bồ Tát trí vì làm nghiệp lành. Thiền định trí là Bồ Tát trí vì chẳng rời định tâm. Trí tuệ trí là Bồ Tát trí vì biết rõ các pháp.
Phương tiện trí là Bồ Tát trí vì thành thục chúng sanh. Từ trí là Bồ Tát trí vì cứu vớt các cõi. Bi trí là Bồ Tát trí vì không mỏi mệt. Hỷ trí là Bồ Tát trí vì vui ưa chánh pháp.
Xả trí là Bồ Tát trí vì thành tựu Phật Pháp. Quán sát trí là Bồ Tát trí vì an trụ niệm xứ. Chánh cần trí là Bồ Tát trí vì thuận bình đẳng. Thần túc trí là Bồ Tát trí vì không tác dụng.
Tín căn lực trí là Bồ Tát trí vì rời tất cả chấp trước. Tinh tấn căn lực trí là Bồ Tát trí vì xô phá tất cả phiền não.
Niệm căn lực trí là Bồ Tát trí vì chẳng mất chánh niệm. Định căn lực trí là Bồ Tát trí vì tất cả pháp bình đẳng. Huệ căn lực trí là Bồ Tát trí vì biết các căn tánh. Bồ đề phần trí là Bồ Tát trí vì tự nhiên giác ngộ. Thánh đạo trí là Bồ Tát trí vì cứu vớt các ác đạo.
Tận trí là Bồ Tát trí vì thiện căn vô tận. Vô sanh trí là Bồ Tát trí vì được vô sanh nhẫn. Niệm Phật trí là Bồ Tát trí vì thành tựu nhân Phật. Niệm pháp trí là Bồ Tát trí vì chuyển pháp luân.
Niệm Tăng trí là Bồ Tát trí vì vào chúng bình đẳng. Niệm xả trí là Bồ Tát trí vì chẳng bỏ tất cả chúng sanh. Niệm giới trí là Bồ Tát trí vì viên mãn tất cả nguyện. Niệm thiên trí là Bồ Tát trí vì lìa tất cả.
Chúng sanh căn trí là Bồ Tát trí vì rõ biết vô lượng. Viên mãn trí là Bồ Tát trí vì giới không khuyết. Chúng sanh nghiệp trí là Bồ Tát trí vì như thiệt tương ưng. Xứ Phi Xứ trí là Bồ Tát trí vì chẳng thấy có xứ.
Thập lực trí là Bồ Tát trí vì nhiếp các Thanh Văn Duyên Giác. Tứ vô úy trí là Bồ Tát trí vì biết rõ chướng chẳng chướng. Quá khứ thế vô ngại trí là Bồ Tát trí vì không chỗ chấp trước.
Vị lai thế vô ngại trí là Bồ Tát trí vì tất cả pháp không chỗ đến. Hiện tại thế vô ngại trí là Bồ Tát trí vì tất cả pháp vô sở trụ. Tất cả chúng sanh thọ vô lượng thân trí là Bồ Tát trí vì từ ngữ ngôn sanh. Tất cả chúng sanh ngôn âm sai biệt trí là Bồ Tát trí vì từ tâm sanh.
Tất cả chúng sanh tâm sở động trí là Bồ Tát trí vì hay biết rõ. Vô quá thất trí là Bồ Tát trí vì biết rõ lỗi lầm của tất cả chúng sanh. Vô sốt bạo trí là Bồ Tát trí vì hay dứt tất cả đấu tranh. Bất thất niệm trí là Bồ Tát trí vì an trụ chúng sanh loạn tâm. Nhiếp chúng sanh trí là Bồ Tát trí vì nhiếp các kẻ giải đãi. Phật bất cộng trí là Bồ Tát trí vì biết ứng hóa. Đại phương tiện trí là Bồ Tát trí vì y bát nhã vậy.
Này Thiên Tử! Trên đây gọi là trí của Chư Bồ Tát. Do trí này sẽ được vô ngại đại trí của Như Lai.
Thương Chủ Thiên Tử bạch: Bạch Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát! Thật hi hữu các Bồ Tát trí ấy tối thù thắng trong ba cõi, chẳng thể dùng ít trang nghiêm mà thành tựu được. Nếu hay phát sanh trí huệ ấy là Đại Thần biến.
Bồ Tát thế nào ở nơi pháp này có thể trang nghiêm đầy đủ?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Này Thiên Tử! Nếu nghe nói tất cả chúng sanh bổn lai tịch diệt mà chẳng kinh sợ thì gọi là Bồ Tát trang nghiêm đầy đủ.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là Bồ Tát?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Nếu hành bồ đề mà vô sở trụ thì gọi là Bồ Tát.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là Ma Ha Tát?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Bồ Tát nói: Đã qua khỏi các hành viên mãn đại trí là Ma Ha Tát.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào nói là thù thắng chúng sanh?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Do trí huệ nên chẳng chấp trước các pháp. Dùng sức phương tiện nhiếp thọ tất cả, nên gọi là thù thắng chúng sanh.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là thanh tịnh chúng sanh?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Vì chẳng cùng ở với phiền não. Vì trừ bệnh phiền não cho chúng sanh mà phát đại tinh tấn nên gọi là thanh tịnh chúng sanh.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là cực thanh tịnh chúng sanh?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Nếu vì độ thoát tất cả chúng sanh mà tịnh tu đạo phẩm thì gọi là cực thanh tịnh chúng sanh.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát thế nào làm Thế Đạo Sư?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Nếu hay an trụ đạo sở hành mà thành thục vô lượng vô biên chúng sanh thì gọi là Thế Đạo Sư.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát thế nào an trụ điều phục?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Nếu ở nơi chúng sanh đáng được điều phục mà có thể làm cho họ an trụ cứu cánh điều phục thì gọi là điều phục.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát thế nào được dũng mãnh?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Nếu hay thành thục tất cả chúng sanh dẹp phá ma oán khiến ra khỏi sanh tử thì gọi là dũng mãnh.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát thế nào là khó ngăn phá được?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Nếu hay thành mãn sở nguyện thuở xưa chẳng cầu đạo chứng của Thanh Văn, Duyên Giác thì gọi là Bồ Tát khó ngăn phá được.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào thắng hơn tất cả?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Dùng trí phương tiện hộ trì chánh pháp thành thục chúng sanh được sự chiêm ngưỡng của tất cả Trời Người thì gọi là thắng hơn.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là thuyết pháp?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Y lời Phật nói xô phá tất cả tà luận dị luận thì gọi là thuyết pháp.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là thuyết luật?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Tự an trụ nơi giới luật có thể dứt phiền não ác nghiệp cho chúng sanh thì gọi là thuyết luật.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là đầy đủ lợi ích chúng sanh?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Bao nhiêu căn lành được chứa họp đều hồi hướng tất cả thì gọi là đầy đủ lợi ích chúng sanh.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là trực tâm?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Đối với chúng sanh tham sân si siểm khúc mà chẳng ghét giận thì gọi là trực tâm.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là chẳng siểm khúc?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Đó là lời nói thành thiệt.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là rời lìa dối phỉnh?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Sau khi suy gẫm kỹ rồi mới nói.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là rời lìa kiêu mạn?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Đối với tất cả chúng sanh chẳng cống cao.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là đại thí?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Vô thượng bồ đề khó được đã chứa họp còn đem bố thí cho chúng sanh huống là những vật thế gian, đây gọi là đại thí.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là đủ giới?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Nhẫn đến dầu phải mất mạng cũng chẳng bỏ Tâm bồ đề, đây gọi là đủ giới.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là nhẫn?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Hay nhẫn được sự bức bách mà chẳng bức bách người đây gọi là nhẫn.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là tinh tấn?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Giản trạch các pháp không có chút pháp khả đắc đây gọi là tinh tấn.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là thiền định?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Chẳng thấy Dục Giới, đây gọi là thiền định.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là trí huệ?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Không có phân biệt, đây gọi là trí huệ.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là an trụ nơi từ?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Quan sát chúng sanh giới rỗng không không có, đây gọi là an trụ nơi từ.
Thiên Tử nói: Bạch Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là an trụ nơi bi?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Biết tất cả pháp không mà chẳng bỏ tinh tấn, đây gọi là an trụ nơi bi.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bổn Sư - Phẩm Ba - Phẩm Pháp Ba - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Trung Bổn Khởi - Phẩm Mười - Phẩm độ Vua Ba Tư Nặc
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Một - Một Pháp - Phẩm Mười Chín - Phẩm Không Phóng Dật
Phật Thuyết Kinh Na Tiên Tỳ Kheo - Phẩm Bốn Mươi Mốt - Phẩm Tại Sao Phật Không Giống Cha Mẹ?
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Năm Và Ba - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đông Phương Tối Thắng đăng Vương đà La Ni
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh ðoạn Tận ái - Phần Mười Sáu - Kết Luận