Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Chín - Pháp Hội Hư Không Mục - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI CHÍN

PHÁP HỘI HƯ KHÔNG MỤC  

PHẦN BA  

Này Kiều Trần Như! Nếu bốn đế ấy là một đế thì mới có thể nhất tâm được!

Này Kiều Trần Như! Lúc quán khác lúc được cũng khác. Lúc quán khác đó là nhân và quả đều hoại hết. Lúc được khác đó là khổ trí, tập trí, diệt trí và đạo trí.

Nếu có Tỳ Kheo quán các hành là vô thường, là khổ, là vô ngã, là bất tịnh, là vô trụ, là lậu, là kiết duyên, là tất cả hữu, đây gọi là hệ phược, vì vậy nên chẳng cầu các ấm các hành mà nhàm tất cả hành và thích cầu Niết Bàn, chí tâm tư duy công đức Niết Bàn, rất thích tịch tĩnh, chẳng tiếc thân mạng, tu Xa ma tha và Tỳ bà xá na. Đây gọi là Tỳ Kheo tu tập pháp hành.

Này Kiều Trần Như! Thế nào là Tỳ Kheo tâm có thể quán sát tâm?

Nếu có Tỳ Kheo có thể quán sát tâm. Tâm vô thường là pháp sanh diệt, đây gọi là Tỳ Kheo tâm hay quán tâm. Tỳ Kheo như vậy tu không tam muội.

Thế nào gọi là không?

Đó là ngũ ấm không, thập nhị nhập không, thập bát giới không, Tứ Đế không, thiệt không, thập nhị nhân duyên không, tánh không.

Thế nào là Ngũ ấm không?

Đó là sắc ấm không, không có ngã ngã sở, đến thức ấm không, không ngã ngã sở. Đây gọi là ngũ ấm không.

Nhập và giới không cũng như vậy.

Thế nào là Tứ Đế không?

Đó là Khổ đế không có đắc không có xả, đến Đạo đế không có đắc không có xả. Đây gọi là Tứ Đế không.

Thế nào gọi là thiệt không?

Trong tất cả pháp không có giác quán không có ngã ngã sở. Đây gọi là thiệt không.

Thế nào là thập nhị nhân duyên không?

Thập nhị nhân duyên tứ là thập nhị hữu chi, quán thập nhị chi không có ngã ngã sở, đây gọi là Thập nhị nhân duyên không.

Thế nào là tánh không?

Nếu có Tỳ Kheo quán nhãn không, không có ngã ngã sở, đến quán ý không, không có ngã sở. Đây gọi là tánh không. Đây gọi là pháp hành có thể quán tâm tâm số.

Tỳ Kheo như vậy chẳng thấy chúng sanh thọ mạng sĩ phu. Tỳ Kheo ấy biết tất cả pháp tánh chân thiệt hiểu biết thế đế vì là lưu bố vậy. Nói ấm nhập giới, biết tất cả pháp tánh không có xuất diệt. Tỳ Kheo như vậy có thể qua khỏi sanh tử, có thể biết khổ, tập, diệt, đạo, có thể dứt phiền não.

Này Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo tu tập pháp hành biết tất cả pháp từ nhân duyên sanh từ nhân duyên diệt. Tỳ Kheo như vậy được ba giải thoát, biết sắc chân tướng. Sắc chân tướng ấy tức là ngại tướng, thọ thọ tướng, tưởng giác tướng, hành hành tướng, thức tri tướng. Đây gọi là chân thiệt biết tất cả pháp tướng, quán như vậy rồi được không giải thoát môn.

Thấy tất cả pháp không có tác giả thọ giả, không có thọ mạng tự tại, chỉ thấy vô thường khổ vô ngã bất tịnh, đây gọi là được vô nguyện giải thoát môn. Quán tất cả pháp không có sanh không có diệt, đây gọi là được Vô tướng giải thoát môn.

Này Kiều Trần Như! Pháp hành Tỳ Kheo có thể được thần thông không có ác giác quán, miệng trọn chẳng nói bốn thứ ác, không có đấu tranh, không nghe lời ác, lúc bấy giờ xa lìa ngũ cái tăng trưởng năm thiện căn được Sơ Thiền.

Nhập Sơ Thiền rồi muốn được thần thông, cột tâm đầu mũi quán hơi thở ra vào sâu thấy chín vàn ngàn lỗ lông, hơi thở ra vào thấy thân đều rỗng không, đến Tứ Đại cũng như vậy. Quán như vậy rồi xa lìa sắc tướng được thần thông, đến Tứ Thiền cũng như vậy.

Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được nhãn thông?

Này Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo quán hơi thở ra vào chân thiệt thấy sắc.

Đã thấy sắc rồi tư duy như vậy: Như ta được thấy tam thế các sắc, ý nếu muốn thấy tuỳ ý liền thấy. Đến Tứ Thiền cũng như vậy.

Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được nhĩ thông?

Này Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo lúc được Sơ Thiền quán hơi thở ra vào. Quán hơi thở ra vào rồi thứ đệ Quán Âm thanh, đến Tứ Thiền cũng như vậy.

Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được tha tâm trí?

Nếu có Tỳ Kheo lúc được Sơ Thiền quán hơi thở ra vào tu Xa ma tha và Tỳ bà xá na, đây gọi là Tha tâm trí, đến Tứ Thiền cũng như vậy.

Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được túc mạng trí?

Nếu có Tỳ Kheo quán hơi thở ra vào lúc được Sơ Thiền được nhãn thông. Được nhãn thông rồi quán thân ban sơ lúc Ca La La nhẫn đến Ngũ ấm sanh diệt, trong vô lượng kiếp Ngũ ấm sanh diệt. Đến Tứ Thiền cũng như vậy.

Nói là thiền ấy, cớ sao gọi là thiền?

Vì mau chóng gọi là thiền. Mau rất mau, trụ đại trụ, tĩnh tịch tĩnh, quán diệt viễn ly, đây gọi là thiền. Sơ Thiền ấy cũng gọi là cụ túc, cũng gọi là viễn ly.

Thế nào là cụ túc?

Thế nào là viễn ly?

Nói viễn ly là xa lìa ngũ cái. Nói cụ túc là có đủ năm chi, đó là giác, quán, hỉ, an và định.

Thế nào là giác?

Như tâm giác đại giác, tư duy đại tư duy quán nơi tâm tánh. Đây gọi là giác.

Thế nào là quán?

Nếu quán tâm hành, đại hành, biến hành, đều tuỳ ý. Đây gọi là quán.

Thế nào là hỉ?

Như chân thiệt biết, biết rất rõ, tâm động chí tâm. Đây gọi là hỉ.

Thế nào là an?

Đó là thân an, tâm an, thọ an, thọ nơi lạc xúc. Đây gọi là an.

Thế nào là định?

Nếu tâm trụ đại trụ, chẳng loạn nơi cảnh duyên, chẳng sai lầm, không có điên đảo. Đây gọi là định. Nhị Thiền ấy, đồng xa lìa ngũ cái, có đủ bốn chi là hỉ, an, nội tịnh và định.

Nhập Tam Thiền cũng xa lìa ngũ cái, có đủ năm chi là niệm, xả, huệ, an và định. Nhập Tứ Thiền cũng lìa ngũ cái, có đủ bốn chi là niệm, xả, bất khổ bất lạc và định.

Này Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo đầy đủ Tứ Thiền, đây gọi là pháp hành. Nếu có Tỳ Kheo quán thân nhàm sợ, xa lìa thân tướng, tất cả thân xúc, hỉ xúc, lạc xúc, phân biệt sắc ấm, xa lìa sắc ấm, quán vô lượng không xứ. Đây gọi là Tỳ Kheo tu tập pháp hành.

Thế nào là Tỳ Kheo được Thức xứ định?

Nếu có Tỳ Kheo tu Xa ma tha, Tỳ bà xá na quán tâm ý thức, tự biết thân này chẳng thọ ba thứ thọ, đã được xa lìa ba thứ thọ ấy, vì vậy nên gọi là được thức xứ định. Đây gọi là pháp hành.

Thế nào là Tỳ Kheo được Thiểu xứ định?

Nếu có Tỳ Kheo quán tam thế không, biết tất cả hành cũng sanh cũng diệt, không xứ và thức xứ cũng sanh cũng diệt.

Quán như vậy rồi thứ đệ quán thức: Nay ta quán thức cũng chẳng phải thức, chẳng phải chẳng thức. Nếu chẳng phải thức ấy đây gọi là tịch tĩnh. Nay ta thế nào dứt hẳn thức ấy. Quán như vậy rồi được ít thức xứ. Đây gọi là Tỳ Kheo được Thiểu xứ định.

Thế nào là Tỳ Kheo được Phi tưởng phi phi tưởng Xứ định?

Nếu Tỳ Kheo có chẳng phải tâm tưởng, suy nghĩ như vậy: Nay tưởng ấy của ta là khổ là thống là nhọt, là ung, là chẳng tịch tĩnh, nếu ta có thể dứt được chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng tưởng ấy, đây gọi là tịch tĩnh. Nếu Tỳ Kheo có thể dứt được chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng tưởng ấy, đây gọi là được vô tướng giải thoát môn.

Tại sao, pháp hành Tỳ Kheo suy nghĩ rằng: Nếu có thọ tưởng, nếu có thức tưởng, nếu có xúc tưởng, nếu có không, nếu có thức, nếu có Phi tưởng phi phi tưởng. Các thứ tưởng ấy gọi là thô tưởng.

Nay nêu ta tu vô tướng tam muội thì có thể dứt được các tưởng như vậy, vì thế nên thấy Phi tưởng phi phi tưởng là Tịch tĩnh xứ. Thấy như vậy rồi nhập Phi tưởng phi phi tưởng định.

Nếu được Phi tưởng phi phi tưởng định rồi mà không ái không ái không tham thì có thể phá vô minh, phá vô minh rồi thì gọi là được quả A La Hán.

Ba định trước không thức và thiểu xứ hai đạo sở đoạn. Định thứ tư sau đây trọn chẳng thể dùng thế tục đạo đoạn được. Phàm phu dù ở nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ không có thô phiền não cũng còn có mười pháp. Đó là thọ, tưởng, hành, xúc, tư, dục, giải, niệm, định và huệ.

Thọ là thức thọ, tưởng là thức tưởng, hành là pháp hành, xúc là ý xúc, tư là pháp tư, dục là muốn nhập định muốn xuất định, giải là pháp giải, niệm là niệm tam muội, định là tâm như pháp trụ, huệ là huệ căn và huệ lực.

Quán hướng Tứ Quả hành đến được A La Hán quả, quán sanh diệt và không tam muội. Quán tứ đại như bốn rắn độc. Mười pháp như vậy, không xứ thứ tư có đủ cả. Do vì không có thô phiền não nên phàm phu gọi đó là Niết Bàn.

Này Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo tu tập Thánh đạo nhàm lìa Tứ Thiền và Tứ không xứ, quán nơi diệt định đạo trang nghiêm tư duy như vậy: Các hơi thở ra vào đều là vô thường, nếu ta dứt được xuất nhập tức thì là an lạc. Do đây nên tất cả các hành nhân duyên đều diệt, thọ diệt, tưởng diệt, nhẫn đến huệ diệt.

Vì giác quán diệt nên ấm nhập giới đều diệt, tham sân si diệt, tất cả tâm số pháp diệt, tất cả phi tấm số pháp cũng diệt. Đây gọi là pháp bất cộng với phàm phu, chẳng phải pháp thế gian, là pháp vô học.

Này Kiều Trần Như! Bậc Tu Đà Hoàn, bậc Tư Đà Hàm trọn chẳng thể được diệt định ấy. Thứ đệ được quả A Na Hàm cũng chẳng thể được. Nếu người A Na Hàm xả thân này rồi được quả A La Hán cũng không thể được diệt định ấy. Nếu người được bát giải thoát đầy đủ, người này mới được diệt định ấy.

Này Kiều Trần Như! Nếu giả sử Như Lai cùng kiếp tận kiếp nói Môn Pháp Mục Đà La Ni ấy mới cùng tận được. Đây gọi là pháp vô ngại trí.

Này Kiều Trần Như! Pháp mục Đà La Ni như vậy chẳng thể nghĩ bàn. Giả sử có người dùng quỷ mao đếm được số giọt nước biển, nhưng chẳng đếm biết được công đức của pháp Mục Đà La Ni. Nếu trừ Như Lai, có ai nói hết được thì không có lẽ ấy. Nhẫn đến tất cả vi trần trong Ta Bà Thế Giới cũng như vậy.

Đức Phật bảo Kim Cương Sơn Đồng Tử rằng: Này Kim Cương Sơn! Pháp Mục Đà La Ni của ông mang đến đây cùng với chỗ được nói hôm nay có khác không?

Kim Cương Sơn Đồng Tử nói: Bạch Đức Thế Tôn! Không có khác vậy.

Đức Phật hỏi: Này Kim Cương Sơn! Nói như vậy chăng?

Kim Cương Sơn Đồng Tử nói: Bạch Đức Thế Tôn! Thiệt nói như vậy.

Đức Phật nói: Với pháp này, nếu có người thọ trì đọc tụng thơ tả rộng vì người giảng nói. Nên biết rằng người ấy thường được Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, tất cả Bát Bộ Thiên Thần thủ hộ. Tất cả tứ ma chẳng được tiện lợi, qua sông phiền não nhập vào bát chánh đạo.

Kim Cương Sơn Đồng Tử nói: Lành thay, bạch Đức Thế Tôn! Thiệt đúng như lời Đức Phật dạy.

Đức Phật bảo Tôn Giả Kiều Trần Như: Này Kiều Trần Như! Nếu có người trong hàng tứ chúng mà tu pháp ấy thì không gì phá hoại được. Đây gọi là thí quang, hay thanh tịnh tịch tĩnh, không có hành xứ, không trược, không động, không có sở y, không ít, không nhiều, gọi là chí xứ hành, là tế hành, là kiên hành, hay phá bốn ma và tứ ma chúng, cùng tất cả tà kiến, qua sông sanh tử vào biển trí huệ, thường được Chư Thánh tán thán, được gần chỗ ngồi của Như Lai, dầu chưa dứt hết tất cả phiền não, cũng được thượng thân thượng sắc thượng lực thượng biện thượng niệm thượng huệ thượng xứ.

Hoặc được làm Chuyển Luân Vương thống lãnh bốn ba hai một thiên hạ. Hoặc làm Thiên Đế Thích đến Tha Hoá Tự Tại Thiên Vương. Hoặc làm Phạm Thiên Vương. Hoặc được toà Kim Cương dưới cội Bồ Đề, phạm âm thâm viễn, tâm thường bình đẳng, được tâm đại bi, được Xa ma tha phá các phiền não gọi là Vô Thượng Tôn.

Lúc Phật nói pháp ấy, Tôn Giả Xá Lợi Phất, Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên v.v… từ chỗ ngồi được quả A La Hán.

Tất cả Chư Thiên và thế nhân tán thán rằng: Như Lai công đức bất khả tư nghị. Vô Lượng chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề.

Tứ Thiên Vương và Công Đức Thiên bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tuỳ xứ nào lưu bố Kinh Điển này, tôi sẽ ủng hộ tứ bộ đệ tử tại xứ ấy, cũng ủng hộ Quốc Độ ấy những thành ấp thôn xóm tụ lạc Quốc Vương và nhân dân.

Lúc bấy giờ Thế Tôn phóng my gian bạch hào tướng quang chiếu suốt Thế Giới Chư Phật mười phươnglàm mờ cả những nhật nguyệt tinh tú châu lửa đèn đuốc. Những nơi được ánh sáng bạch hào ấy chiếu đến thì tất cả gai gốc độc không còn hiện. Chúng sanh trong vô lượng hằng hà sa số Thế Giới mười phương thấy ánh sáng ấy, họ đều nhiếp niệm tư duy pháp lành.

Chư Phật mười phương thấy ánh sáng ấy đều bảo đại chúng mình rằng: Này các thiện nam tử! Cách đây vô lượng hằng hà sa số Thế Giới có Thế Giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược. Nơi đó hiện có Phật Hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai đủ mười hiệu. Mười phương có vô lượng Bồ Tát, vô lượng Thanh Văn đều đến đó tập hội. Phật ấy vì đại chúng tuyên nói pháp hành Môn Pháp Mục Đà La Ni.

Phật ấy vì hàng Thanh Văn nói pháp hành xong phóng đại quang minh, sắp sửa tuyên nói môn Tịnh Mục Đà La Ni, để người trung thừa được quả Duyên Giác, để Chư Bồ Tát trang nghiêm thành tựu vô thượng bồ đề đầy đủ Thập Địa Mười Tám pháp bất cộng chuyển pháp luân bất thối, phá ba ác thú, khiến tu Bát Thánh Đạo được quả vô thượng.

Vô lượng đại chúng Chư Bồ Tát nghe Đức Phật mình tuyên lời ấy, tất cả đều bạch Phật mình rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nay chúng tôi đều muốn đến Ta Bà Thế Giới kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai và cũng để nghe học môn Tịnh Mục Đà La Ni.

Bấy giờ mười phương vô lượng đại chúng Bồ Tát đến Ta Bà Thế Giới chỗ Đức Thế Tôn đầu mặt lễ Phật rồi ngồi qua một phía.

Thế Giới này, vô lượng Phạm Thiên đồng đến chỗ Phật cúng dường kính lễ rồi ngồi qua một phía. Trăm ức Ma Thiên, trăm ức Tha Hoá Tự Tại Thiên, trăm ức Hoá Lạc Thiên, trăm ức Đâu Suất Đà Thiên, trăm ức Dạ Ma Thiên, trăm ức Đao Lợi Đế Thích Thiên, trăm ức Tứ Thiên Vương Thiên, trăm ức Nhật Nguyệt Thiên, trăm ức Diêm La Vương, trăm ức Địa Hành Quỷ, bốn trăm ức A Tu La, bốn trăm ức Long Vương.

Đại chúng như vậy đều đến cúng dường kính lễ Phật rồi ngồi qua một phía. Vô lượng Sa Môn, Bà La Môn, những người có thần thông cũng đến chỗ Phật kính lễ rồi ngồi qua một phía.

Trong Thế Giới có các ngoại đạo tướng sư thấy quang minh ấy đều suy nghĩ rằng: Ánh sáng ấy chẳng phải ánh sáng nhật nguyệt tinh tú châu lửa đèn đuốc, ắt là ánh sáng lạ, có thể chẳng bao lâu có bảy mặt nhật mọc sẽ đốt cháy hết đại hải, sông núi, cây cỏ, sau đó Dục Giới sẽ có thuỷ tai.

Còn có người nói, sau đây chẳng lâu sẽ có mưa độc giết hại tất cả. Còn có người nói, sau đây chẳng lâu sẽ có mưa đao kiếm giết hại người vật. Thời kỳ ác hại sắp đến rồi, ai có thể cứu được.

Có người nói: Chỉ có Cù Đàm Sa Môn thương xót tất cả có lẽ ông ấy sẽ cứu được khỏi chết. Bấy giờ mọi người chí tâm niệm Phật. Niệm rồi liền thấy Đại Bảo Phường Đình, do Phật thần lực, họ đến trong phường đình.

Vua Ba Tư Nặc, do Phật thần lực cũng thấy bảo phường và cũng được đến đó. Vua Ưu Điền Đà Na, vua Ác Tánh, Vua Luân Đầu Đàn, Vua Ma Hê Đà, Vua Đầu Đà Xa Na, Vua Tần Bà Sa La. Các Vua ấy cũng do Phật thần lực thấy bảo phường đều được đến đó. Các Vua đến nơi rồi cúng dường kính lễ Phật rồi ngồi qua một phía.

Các vua ngồi rồi bảo nhau rằng: Trong đây có đại Tiên Nhân, có Phật Thế Tôn.

Vậy nhân duyên của ánh sáng ấy nên đem hỏi ai?

Vua Đầu Đà Xa Na nói: Tôi có một đại Bà La Môn sư tên Điện Man, giỏi biết tướng pháp, hay giải hay nói, là người đáng nên hỏi.

Tướng sư Điện Man nghe rồi liền nói: Tôi xem rộng hết tất cả tướng thơ đều không có ghi sự này. Thiệt tôi chẳng thể hiểu được điềm ánh sáng ấy. Chẳng riêng gì tôi, mà cả năm trăm tướng sư trong Diêm Phù Đề này cũng đều chẳng hiểu được.

Vua Tần Bà Sa La nói: Này các vua! Sao các vua lại rối vậy. Trong đại chúng nơi bảo phường này có Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni đủ Nhất thiết trí, giỏi biết tất cả tướng thế gian và xuất thế gian, biết rõ sách tướng lành mười hai tháng, có lòng đại từ bi thương mến tất cả chúng sanh, thiệt ngữ chánh ngữ. Chỉ có Phật Thế Tôn đây có thể giải nói điềm ánh sáng ấy. Chúng ta nên hỏi Phật.

Các vua và đại chúng đều tôn ngưỡng đồng bạch rằng: Ngữa mong Như Lai vì chúng tôi mà nói sách tướng mười hai tháng.

Đức Phật nói: Này các vua! Nay đại hội này chẳng nên nói sách tướng thế gian.

Vua Tần Bà Sa La bạch rằng: Bạch Thế Tôn! Nay trong đại chúng này có những người chẳng tin công Đức Như Lai. Họ lại chẳng tin Thế Tôn là Bậc Nhất Thiết Trí. Nguyện Phật vì phá hoại lòng nghi như vậy mà vì chúng tôi tuyên nói sách ấy. Những người như vậy được nghe rồi ắt vui mừng sanh lòng tin. Họ sanh lòng tin rồi mới có thể vì họ nói đạo xuất thế. Những người này cũng thường thích học hỏi để điều phục.

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Chí tâm lắng nghe, Phật sẽ nói đó.

Này Đại Vương! Thưở xưa tại Tuyết Sơn có một Tiên Nhân tên Bạt Già Bà. Tiên ấy ăn rau quả rễ củ, tu tập từ tâm, chưa dứt được phiền não kiết sử, chẳng điều phục được lòng tham dục.

Chỗ Tiên Nhân ấy có một cọp cái bèn cùng hành dục. Cọp cái có thai đủ ngày tháng đến chỗ Tiên Nhân đẻ mười hai người con trai. Vì lòng thương, Tiên Nhân tắm rửa các trẻ và mớm nuôi chúng. Cọp mẹ cũng mến yêu luôn cho chúng bú.

Tiên Nhân đặt tên cho chúng: Thứ nhất tên Đoan Già, thứ hai tên Bạt Già Bà, thứ ba tên Hổ, thứ tư tên Sư Tử, thứ năm tên Đảm Trọng, thứ sáu tên Bà La Đọa Xà, thứ bảy tên Bộ Hành, thứ tám tên Bà La Nô, thứ chín tên Kiện Thực, thứ mười tên Ác Tánh, thứ mười một tên Sư Tử Thiềm, thứ mười hai tên Kiện Hành. Mười hai Đồng Tử ấy đều ăn rau quả rễ củ, lúc lên bảy tuổi thì cả cha và mẹ đều chết.

Các trẻ ấy sầu não lo lắng kêu khóc, ngước mặt lên trời mà nói rằng: Tại sao một lúc không có nơi nương dựa thế này.

Có thọ thần nghe lời kêu khóc ấy bảo rằng: Này các Đồng Tử chớ kêu khóc. Có chỗ dựa nương đó là Phạm Thiên thường thương mên chúng sanh. Các ngươi ngày đêm sáu thời nên tự tắm gội, hướng lên hư không chí tâm lễ lạy cầu khẩn Phạm Thiên.

Phạm Thiên sẽ dùng vô ngại thiên nhĩ nghe tiếng của các ngươi. Nghe rồi Phạm Thiên sẽ đến chỗ chúng ngươi ở. Đến rồi vì thương xót Phạm Thiên sẽ phá trừ si ám cho các ngươi mà ban cho ánh sáng trí huệ. Được trí huệ rồi thì tất cả Chư Thiên sẽ cúng dường các ngươi huống là thế nhân.

Các Đồng Tử y theo lời thọ thần mà thi hành suốt mười hai năm Phạm Thiên mới nghe tiếng kêu cầu của họ mà xuống Cung Trời Đao Lợi.

Thiên Đế Thích thấy Phạm Thiên đến liền cung kính cúng dường rồi hỏi rằng: Đại Sĩ muốn việc gì?

Phạm Thiên nói: Này Kiều Thi Ca! Ông chẳng thấy mười hai Tiên Nhân trong Tuyết Sơn kia sao?

Nên cùng qua đó. Thích Đề Hoàn Nhân cùng vô lượng Chư Thiên theo Phạm Thiên xuống Tuyết Sơn. Thấy Phạm Thiên đến, mười hai Tiên Nhân vui mừng hớn hở lễ bái cúng dường.

Phạm Thiên Vương hỏi: Các người cớ chi trong mười hai năm tinh cần khổ hạnh cúng dường ta muốn cầu sự gì?

Vì cầu danh tiếng sắc lực của cải, hay cầu Thánh Đạo trí huệ, hay cầu được thân Chư Thiên?

Kiệt Già Tiên bạch Phạm Thiên: Thưa Đại Sĩ! Nay tôi chẳng cầu những sự ấy. Tôi muốn cầu trí huệ để vì chúng sanh. Chúng tôi côi cút trẻ nít sớm mất cha mẹ tự theo ý mình không có ai dạy bảo.

Duy nguyện Đại Sĩ ban cho chúng tôi trí huệ, cho chúng tôi biết các nghiệp thiện ác, cũng rõ chúng sanh những nghiệp thiện ác, cũng biết chúng sanh Quốc Độ thành ấp Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, nam nữ đại tiểu các tướng thiện ác các sự khổ vui, các Vua tham nước chẳng biết chán đủ hưng binh đánh nhau các tướng thạnh suy. Nếu tôi được biết rồi sẽ dùng phương tiện dạy họ dứt diệt tướng xấu ác cho họ được an lạc.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần