Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Mốt - Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI MỐT
PHÁP HỘI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ TÁT
PHẦN BA
Lại này thiện nam tử! Đại Bồ Tát tu tập đại bi có mười sáu sự.
Những gì là mười sáu?
Một là Đại Bồ Tát thấy chúng sanh tham trước ngã kiến, do nơi ngã kiến mà sanh ra các kiến chấp nên luôn bị sanh tử trói buộc, vì vậy nên Đại Bồ Tát tu tập đại bi, do tâm đại bi mà vì chúng sanh thuyết pháp giáo hóa để phá các kiến chấp hư vọng như vậy.
Hai là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh điên đảo nơi thường thì thấy là vô thường, nơi vô thường thì thấy là thường, nơi khổ thấy là vui nơi vui thì thấy là khổ, nơi tịnh thấy bất tịnh nơi bất tịnh thấy là tịnh, nơi ngã thấy vô ngã nơi vô ngã thấy ngã.
Do đây Đại Bồ Tát tu tập tâm đại bi, do tâm đại bi mà vì các chúng sanh tuyên nói pháp yếu để phá bốn thứ mê chấp điên đảo như vậy.
Ba là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh có lòng kiêu mạn, thiệt không có vật mà cho là có vật, thiệt không có sự mà cho là có sự, do đây mà họ sanh ra bảy thứ kiêu mạn, do kiêu mạn mà sanh lớn các pháp ác.
Vì vậy mà Đại Bồ Tát tu tập tâm đại bi, do tâm đại bi Đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để phá trừ lòng kiêu mạn của các chúng sanh.
Bốn là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh bị ngũ cái che trùm, vì bị che trùm nên lòng họ sanh nghi với chánh pháp nghĩa thậm thâm họ không hiểu được, vì các chúng sanh này mà Đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi Đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để phá năm cái chướng của các chúng sanh ấy.
Năm là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh chìm trong biển lục nhập: mắt họ duyên lấy tướng hình sắc, tai họ duyên lấy tướng âm thanh, mũi họ duyên lấy hơi hương, lưỡi họ duyên lấy tướng mùi vị, thân họ duyên lấy tướng chạm xúc và ý họ duyên lấy tướng các pháp, sự duyên lấy tướng như vậy gọi đó là bị chìm, vì các chúng sanh này mà Đại Bồ Tát tu tâm đại bi Đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để vớt chúng sanh khỏi bị chìm trong sáu trần tướng.
Sáu là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh có bảy thứ mạn, đó là mạn, đại mạn, mạn mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, hạ mạn và tà mạn.
Vì các chúng sanh này mà Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi, Đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu chân chánh để dứt các thứ mạn ấy của chúng sanh.
Bảy là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh rời lìa Thánh Đạo, họ thích làm thế tục đạo và ác đạo, vì vậy mà Đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi Đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để dứt trừ thế tục đạo và ác đạo của các chúng sanh.
Tám là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh tạo nghiệp ác đạo, lệ thuộc vô minh ái, bị vợ con trói buộc nên chẳng được tự tại, vì vậy mà Đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi Đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để dứt sự hệ phược ấy cho chúng sanh xuất ly ác đạo.
Chín là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh gần gũi bạn xấu ác mà xa lìa bạn lành tốt, lòng họ cam đành tạo gây nghiệp ác, vì vậy mà Đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi Đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu để dứt nghiệp ác của chúng sanh khiến họ xa bạn ác và gần bạn lành.
Mười là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh gây tạo nghiệp xan tham nơi vô minh ái không biết nhàm đủ, vì vậy mà Đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi Đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để dứt xan tham vô minh và ái của các chúng sanh ấy và ban cho họ trí huệ.
Mười một là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh nhiều ngã kiến đoạn kiến, vì vậy mà Đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi Đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu ban bố cho họ trí huệ chân chánh mười hai nhân duyên để dứt ngã kiến và đoạn kiến của các chúng sanh.
Mười hai là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh hiện hành vô minh tối tăm vó nhiều kiến chấp, đó là ngã kiến, chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, nhân kiến, dị kiến, tà kiến, thủ kiến, vì vậy mà Đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi Đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để dứt trừ các kiến chấp của các chúng sanh, ban cho họ chánh kiến trí huệ.
Mười ba là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh ưa thích trong sanh tử, với thân ngũ ấm cho là thân thiết, vì vậy mà Đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi Đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp để cho chúng sanh thoát khỏi sanh tử trong ba cõi.
Mười bốn là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh bị ma trói buộc, vì vậy mà Đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi Đại Bồ Tát vì chúng sanh tuyên nói chánh pháp để dứt phá lưới ma nghiệp ma của chúng sanh.
Mười lăm là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh ưa thích sự khoái lạc hư đối của thế tục mà chẳng biết được sự vui chân thật và nhân của vui chân thật, vì vậy mà Đại Bồ Tát tuyên nói chánh pháp chỉ dạy nhân hạnh của quả vui chân thật cho chúng sanh.
Mười sáu là Đại Bồ Tát thấy các chúng sanh cầu cửa vào Niết Bàn mà chẳng biết chỗ, vì vậy mà Đại Bồ Tát tu tâm đại bi, do tâm đại bi Đại Bồ Tát tuyên nói pháp yếu mở cửa Niết Bàn cho các chúng sanh.
Này thiện nam tử! Do mười sáu nhân duyên như vậy mà Đại Bồ Tát vì các chúng sanh tu tâm đại bi.
Lại này Đà La Ni Tự Tại Vương! Các loài chúng sanh có ba mươi hai nghiệp ác bất thiện. Vì thấy như vậy mà Chư Đại Bồ Tát tu tập nghiệp thiện để phá trừ các nghiệp ác ấy cho chúng sanh.
Những gì là ba mươi hai nghiệp?
Một là thấy có các chúng sanh nặng về vô minh ngủ nghỉ, Đại Bồ Tát vì họ mà tu tập trí huệ để phá vô minh thùy miên ấy.
Hai là thấy có các chúng sanh hiểu biết thấp hạ mong muốn thấp hạ, Đại Bồ Tát vì họ mà tu tập hiểu biết thắng thượng chí nguyện thắng thượng để đem pháp Đại Thừa thắng thượng giáo hóa họ.
Ba là thấy có các chúng sanh thích những phi pháp, Đại Bồ Tát tu tập chánh pháp để làm cho các chúng sanh ấy được đại tự tại nơi tất cả pháp.
Bốn là thấy có các chúng sanh ưa tà mạng, Đại Bồ Tát tu tập chánh mạng để phá trừ tà mạng ấy.
Năm là thấy có các chúng sanh vào trong rừng tà, Đại Bồ Tát tu tập chánh kiến để làm cho các chúng sanh và ra khỏi rừng tà.
Sáu là thấy có các chúng sanh ưa phóng dật, Đại Bồ Tát tu tập bất phóng dật để làm cho các chúng sanh xa lìa phóng dật.
Bảy là thấy có các chúng sanh ưa thô bạo, Đại Bồ Tát tu tập công hạnh đúng chánh pháp để làm cho các chúng sanh xa lìa thô bạo.
Tám là thấy có các chúng sanh tham lam bỏn xẻn, Đại Bồ Tát tu tập hạnh bố thí rộng lớn để làm cho cac chúng sanh dứt tham lam bỏn xẻn.
Chín là thấy có các chúng sanh hay hủy phạm cấm giới, Đại Bồ Tát tu trì tịnh giới để trừ lòng phá giới của các chúng sanh.
Mười là thấy có các chúng sanh lòng thường giận hờn, Đại Bồ Tát tu tâm từ bi nhẫn nhục để phá lòng giận hờn của các chúng sanh.
Mười một là thấy có các chúng sanh đối với chánh pháp thiện pháp lười biếng thật hành, Đại Bồ Tát tu tập siêng cần tinh tấn để trừ sự lười biếng ấy của các chúng sanh.
Mười hai là có các chúng sanh tâm tưởng tán loạn, Đại Bồ Tát tu tập chánh định để trừ tâm tán loạn của các chúng sanh.
Mười ba là có các chúng sanh tà trí che tâm, Đại Bồ Tát tu tập chánh trí để trừ tà trí ấy của các chúng sanh.
Mười bốn là có các chúng sanh nói nghĩa điên đảo, Đại Bồ Tát tư duy chánh nghĩa để trừ sự điên đảo ấy của các chúng sanh.
Mười lăm là thấy có các chúng sanh ưa gây tạo sự nghiệp thế tục, Đại Bồ Tát tu tập thiện quyền phương tiện để trừ lòng ưa thích tạo nghiệp thế tục ấy của các chúng sanh.
Mười sáu là thấy có các chúng sanh bị phiền não trói buộc, Đại Bồ Tát tu tập chánh pháp tự dứt trừ phiền não và để làm cho các chúng sanh cũng dứt trừ phiền não.
Mười bảy là thấy có các chúng sanh bị buộc chặt nơi ngã kiến, Đại Bồ Tát trước tự trừ ngã kiến rồi sau trừ ngã kiến của các chúng sanh.
Mười tám là thấy có các chúng sanh các căn chẳng điều phục, Đại Bồ Tát tu tập trước tự điều phục các căn rồi sau làm cho các chúng sanh điều phục các căn của họ.
Mười chín là thấy có các chúng sanh nói không nghiệp nhân không quả báo, Đại Bồ Tát tuyên nói nghiệp nhân quả báo để phá trừ tà kiến bác nhân quả của các chúng sanh.
Hai mươi là thấy có các chúng sanh chẳng biết ân nghĩa, Đại Bồ Tát tuyên nói về ân nghĩa để trừ lòng chẳng biết ơn của các chúng sanh ấy.
Hai mươi mốt là thấy có các chúng sanh chưa được mà tự cho là đã được, Đại Bồ Tát tu tập chánh pháp để trừ lỗi tăng thượng mạn của các chúng sanh ấy.
Hai mươi hai là thấy có các chúng sanh ác khẩu thô bạo, Đại Bồ Tát tu tập thiện ngữ dịu dàng để trừ áckhẩu của các chúng sanh.
Hai mươi ba là thấy có các chúng sanh tham lam chẳng biết vừa đủ, Đại Bồ Tát tu tập biết đủ để trừ lòng không biết đủ của các chúng sanh.
Hai mươi bốn là thấy có các chúng sanh chẳng cung kính cha mẹ và Sư trưởng, Đại Bồ Tát tu tập hiếu thuận để làm cho chúng sanh biết cúng dường cung kính tôn trọng các bậc cha mẹ Sư trưởng.
Hai mươi lăm là thấy có các chúng sanh nghèo cùng khốn khổ, Đại Bồ Tát tu tập bảy thánh tài để trừ sự nghèo cùng khốn khổ của các chúng sanh.
Hai mươi sáu là thấy có các chúng sanh bị bốn loại rắn độc làm bệnh, Đại Bồ Tát tu tập thân niệm xứ để làm cho các chúng sanh xa lìa bốn loại rắn độc ấy.
Hai mươi bảy là thấy có các chúng sanh hiện hành vô minh tối tăm, Đại Bồ Tát tu tập trí huệ để làm cho các chúng sanh ấy thắp đèn trí huệ.
Hai mươi tám là thấy có các chúng sanh thích nhà ngục Tam Giới, Đại Bồ Tát tu tập pháp giải thoát xuất ly để dạy cho các chúng sanh biết xuất ly Tam Giới.
Hai mươi chín là thấy có các chúng sanh thường hành tà đạo, Đại Bồ Tát tu tập chánh đạo để làm cho các chúng sanh trừ bỏ tà đạo.
Ba mươi là thấy có các chúng sanh tham ái thân mạng, Đại Bồ Tát tu tập lòng chẳng tham ái thân mạng mình để dạy chúng sanh bỏ lòng tham ái thân mạng.
Ba mươi mốt là thấy có các chúng sanh chẳng biết cung kính cúng dường Tam Bảo, Đại Bồ Tát tu tập tâm tịnh tín để làm cho các chúng sanh phát lòng tin ngôi Tam Bảo.
Ba mươi hai là thấy có các chúng sanh thiệt chẳng phải là Phật Thế Tôn mà tự xưng là Phật Thế Tôn, Đại Bồ Tát tu tập sáu chánh niệm để làm cho các chúng sanh ấy biết pháp chân thật vậy.
Này thiện nam tử! Trên đây là ba mươi hai nghiệp hữu lậu của chúng sanh, Đại Bồ Tát thấy rồi tự mình tu tập pháp đối trị thành tựu đầy đủ pháp lành rồi phá các ác nghiệp khuyên các chúng sanh thật hành thiện nghiệp.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát có vô lượng công hạnh, tại sao?
Vì chúng sanh có vô lượng môn, vì đóng bít vô lượng cửa phiền não ấy mà Đại Bồ Tát tu tập vô lượng công hạnh lành.
Này thiện nam tử! Như có chúng Thanh Văn và Bích Chi Phật đông bằng số cát Sông Hằng, muốn đem số đông này so sánh với Bồ Tát sơ Phát bồ đề Tâm thì chẳng bằng một phần trăm một phần ngàn, cho đến không thể lấy gì ví dụ được.
Tại sao?
Vì hàng nhị thừa vì giải thoát cho mình mà quán xét dứt trừ các phiền não. Còn Bồ Tát thì không phải như vậy. Các Bồ Tát luôn vì chúng sanh làm cho họ được giải thoát mà quán xét đối trừ các phiền não.
Này thiện nam tử! Các công nghiệp được làm của Chư Bồ Tát là rất hơn công nghiệp của các phàm phu và hàng nhị thừa.
Tại sao?
Vì việc làm của phàm phu tánh chất nó là phiền não là hữu lậu. Việc làm của hàng nhị thừa dầu tánh chất chẳng phải phiền não là vô lậu nhưng có biên tế, còn việc làm của Bồ Tát vô biên vộ lượng, vì vậy mà công hạnh của Bồ Tát hơn cả hàng Thanh Văn và Duyên Giác.
Bấy giờ Đà La Ni Tự Tại Vương Bồ Tát nghe pháp ấy rồi lòng rất vui mừng hớn hở vô lượng mà bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Rất là lạ lùng rất là đặc biệt, lời Đức Phật dạy chẳng thể nghĩ bàn. Đức Như Lai đã nói Bồ Tát anh lạc trang nghiêm, Đức Như Lai đã nói Bồ Tát quang minh, Bồ Tát đại bi, Bồ Tát thiện nghiệp.
Nguyện cầu Đức Như Lai tuyên nói Chư Phật quán xét các chúng sanh mà sanh khởi tâm đại bi thế nào?
Sao gọi là bi và bi có những công hạnh gì, có những tướng mạo gì, do nhân duyên gì mà sanh khởi, sao gọi là Phật nghiệp và Phật nghiệp có những công hạnh gì, có những tướng mạo gì, do nhân duyêngì mà phát khởi lên?
Lành thay Đức Thế Tôn đấng Nhất Thiết trí, xin nói rộng về công nghiệp của Như Lai.
Đức Phật phàn bảo: Lành thay lành thay! Này thiện nam tử nay ông nên lắng nghe suy nhớ kỹ, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
Này thiện nam tử! Tất cả Chư Phật chỗ có đại bi chẳng phát xuất chẳng hiện hành, tại sao, vì thường chẳng biến đổi, vì trong vô lượng kiếp tu tập mà được đại bi, nên đại bi ấy chẳng hiện hành, chẳng chuyển khởi, chẳng tu tập chẳng rời bỏ mà có khả năng làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Này thiện nam tử! Đại bi của Chư Phật vô lượng vô biên, tâm ấy bình đẳng. Dầu dùng công sức của vô lượng cái lưỡi biện tài trong thời gian nhiều kiếp cũng không thể tuyên nói hết được.
Này thiện nam tử! Chư Phật Thế Tôn chưa có lúc nào xa lìa đại bi như vậy. vô thượng bồ đề và đại biấy, hai pháp như vậy bình đẳng không có sai khác.
Này thiện nam tử! Vô thượng bồ đề của Chư Phật Như Lai vô căn vô trụ. Chư Phật Như Lai biết căn biết trụ nên vô thượng bồ đề không có căn không có trụ. Tất cả chúng sanh thảy đều không có, không có căn không có trụ.
Vì muốn ban cho chúng sanh vô thượng bồ đề vô căn vô trụ mà Chư Phật Thế Tôn khởi tâm đại bi. Nơi đây, vì muốn cho chúng sanh biết vô căn vô trụ mà Đức Như Lai tuyên nói chánh pháp.
Này thiện nam tử! Luận về bồ đề là thanh tịnh là tịch tĩnh.
Thế nào là thanh tịnh, thế nào là tịch tĩnh?
Thanh tịnh gọi là trong, tịch tĩnh gọi là ngoài. Bên trong gọi là nhãn rỗng không, rỗng không gọi là không có ngã không có ngã sở, tại sao, vì tánh là một vậy.
Như nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng như vậy, tại sao, vì tánh là một vậy. Đã biết nhãn rỗng không rồi thì không trụ trước nơi sắc hình, tâm chẳng trụ trước nơi sắc thì gọi là tịch tĩnh. Như sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp cũng như vậy.
Vì tất cả chúng sanh chẳng biết bồ đề thanh tịnh tịch tĩnh nên Đức Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết vậy.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh tâm tánh bổn lai thanh tịnh. Vì tánh thanh tịnh nên tất cả phiền não kiết sử không nhiễm ô được. Như hư không chẳng thể nhiễm ô, tâm tánh và không tánh đồng nhau không có sai khác.
Chúng sanh vì chẳng biết tâm tánh thanh tịnh nên bị dục tham phiền não trói buộc, vì vậy mà Đức Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho họ được biết vậy.
Này thiện nam tử luận về bồ đề chẳng thủ chẳng xả.
Thế nào là chẳng thủ?
Chư Phật Như Lai chẳng thấy tất cả pháp có thử ngạn bỉ ngạn, tại sao, vì tất cả pháp rời lìa thử bỉ vậy. Chư Phật Như Lai biết thật như vậy nên gọi là bất thủ.
Thế nào là bất xả?
Tất cả chúng sanh chẳng biết pháp giới, Chư Phật Như Lai tuyên dạy cho họ biết rõ pháp giới, đây gọi là bất xả vậy. Vì duyên cớ này mà Chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho chúng sanh biết rõ hai pháp bất thủ và bất xả như vậy.
Này thiện nam tử! Bồ đề vô tưởng vô duyên.
Thế nào là vô tưởng?
Chẳng thấy có nhãn thức cho đến ý thức, chẳng thấy có sắc tướng cho đến pháp tướng, đây gọi là vô tướng.
Thế nào là vô duyên?
Ở trong các pháp như vậy, vì chẳng biết chẳng thấy nên không có thủ trước, đây gọi là vô duyên. Vô tưởng và vô duyên gọi là Thánh hạnh.
Thế nào gọi là Thánh hạnh?
Vì rằng chẳng hiện hành nghiệp hạnh tam giới vậy.
Này thiện nam tử! Chẳng hiện hành nghiệp hạnh giới như vậy gọi là Thánh Hạnh, tất cả Thánh Nhân chẳng hiện hành nơi nghiệp hạnh ấy. Chúng sanh chẳng hiện hành Thánh Hạnh như vậy, nên Chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho chúng sanh được biết.
Này thiện nam tử! Bồ đề chẳng phải là Tam Thế. Quá khứ ý, vị lai thức và hiện tại tham đây gọi là ba phần thời gian. Vì biết rõ được ba phần như vậy nên ý với thức và tham không có chỗ an trụ, vì vậy mà chẳng nhớ quá khứ chẳng cầu vị lai chẳng tham ái hiện tại.
Nếu thấy tam thế đều bình đẳng thì gọi là chánh kiến. Vì muốn tất cả chúng sanh được chánh kiến bình đẳng như vậy nên Chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp.
Này thiện nam tử! Bồ đề vô thân vô vi.
Thế nào là vô thân?
Chẳng phải nhãn thức giới cho đến chẳng phải ý thức giới, đây gọi là vô thân.
Thế nào là vô vi?
Bất sanh bất diệt bất tận bất trụ, không có ba tướng sanh trụ và diệt, đây gọi là vô vi.
Này thiện nam tử! Tất cả pháp tánh là vô tánh, nếu vô tánh thì không có sai biệt gọi là không có hai. Vì vậy nên bồ đề không có thân không có vi tác. Tất cả chúng sanh chẳng biết bồ đề vô thân vô vi, vì vậy nên Chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ biết rõ như vậy.
Này thiện nam tử! Bồ đề không có phân biệt không có cú nghĩa.
Thế nào là không có phân biệt?
Thế nào là không có cú nghĩa?
Vô sở trụ gọi là không có phân biệt, chẳng nhiếp thuộc về chữ gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng phải có hai gọi là không có phân biệt, chẳng nhập vào pháp giới gọi là không có cú nghĩa.
Không động dao gọi là không có phân biệt, chẳng biến đổi gọi là không có cú nghĩa.
Vì rỗng không nên gọi là không có phân biệt, vì chẳng thể nói được nên gọi là không có cú nghĩa.
Vì không giác không quán nên gọi là không có phân biệt, vì không có tướng nên gọi là không có cú nghĩa.
Vì chẳng phát khởi nên gọi là không có phân biệt, vì không có nguyện cầu nên gọi là không có cú nghĩa.
Biết chúng sanh giới đồng với hư không gọi là không có phân biệt, không có chúng sanh giới gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng sanh gọi là không có phân biệt, chẳng trụ gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng diệt gọi là không có phân biệt, vô vi gọi là không có cú nghĩa.
Chẳng hành gọi là không có phân biệt, bình đẳng gọi là không có cú nghĩa.
Biết bình đẳng gọi là không có phân biệt, tịch tĩnh gọi là không có cú nghĩa.
Vì chúng sanh chẳng biết như vậy, nên Chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ biết rõ các nghĩa ấy.
Này thiện nam tử! Chẳng thể dùng thân để được, chẳng thể dùng tâm để được, tại sao, vì thân tâm như huyễn vậy. Nếu có thể biết rõ được thân tâm chân thật thì gọi là bồ đề. Nói gọi là bồ đề đó là vì để lưu bố thế tục, nhưng tánh và tướng bồ đề thiệt không thể nói được.
Này thiện nam tử! Luận về bồ đề thì chẳng thể nói thân, chẳng thể nói tâm, chẳng thể nói pháp, chẳng thể nói phi pháp, chẳng thể nói có, chẳng thể nói không có, chẳng thể nói thiệt, chẳng thể nói rỗng không, tại sao, vì tánh chẳng thể nói được vậy.
Bồ đề không có trụ xứ chẳng thể tuyên nói được dường như hư không. Vì biết thiệt tất cả pháp chẳng thể tuyên nói được, trong chữ không có pháp, trong pháp không có chữ, chỉ vì lưu bố theo thế tục mà tuyên nói.
Tất cả phàm phu chẳng biết chân thật, nên Chư Phật Như Lai khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp làm cho họ biết chân thật.
Này thiện nam tử! Bồ đề vô thủ vô duyên.
Thế nào là vô thủ, thế nào là vô duyên?
Biết nhãn chân thật gọi là vô thủ, biết nhãn không có sắc cảnh gọi là vô duyên.
Biết nhĩ chân thật gọi là vô thủ, biết nhĩ không có thanh cảnh gọi là vô duyên.
Biết tỷ chân thật gọi là vô thủ, biết tỷ không có hương cảnh gọi là vô duyên.
Biết thiệt chân thật gọi là vô thủ, biết thiệt không có vị cảnh gọi là vô duyên.
Biết thân chân thật gọi là vô thủ, biết thân không có xúc cảnh gọi là vô duyên.
Biết ý chân thật gọi là vô thủ, biết ý không có pháp cảnh gọi là vô duyên.
Như Lai Thế Tôn do nghĩa như vậy biết bồ đề vì không có thủ trước nên gọi là không có nhãn, vì không có nhà cửa nên gọi là vô duyên. Nhãn thức chẳng trụ trong cảnh sắc kia gọi đó là không nhà cửa, nhẫn đến ý thức cũng như vậy.
Tất cả chúng sanh tâm không có chỗ trụ ở. Như Lai Thế Tôn như thiệt biết tâm không có chỗ trụ ở. Chỗ trụ ở có bốn thứ, đó là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn và hành uẩn. Nơi bốn thứ này tâm không có chỗ trụ ở, đây gọi là tâm không có chỗ trụ ở.
Vì vậy mà gọi rằng tất cả các pháp đều không có chỗ trụ ở. Như Lai Thế Tôn như thiệt biết đó, mà vì các hàng phàm phu không thể biết được, nên Như Lai Thế Tôn phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp để cho họ được biết chân thật vậy.
Này thiện nam tử! Bồ đề gọi là rỗng không, nhưng trong bồ đề không có tướng rỗng không, đây gọi là rỗng không. Tất cả pháp rỗng không bồ đề cũng rỗng không, Như Lai Thế Tôn chân thật biết được rỗng không như vậy, nên Như Lai gọi là đấng biết rỗng không.
Chư Phật gọi là Đấng Giác Ngộ tất cả các pháp rỗng không trong rỗng không nhưng chẳng có giác tri, cũng hay biết rõ Vô Thượng bồ đề.
Rỗng không và bồ đề là nhất như, rỗng không cùng bồ đề là một chẳng phải là hai. Rời rỗng không mà bồ đề có pháp riêng khác mới được nói là hai.
Vì không có hai nên gọi đó là rỗng không, vì không có danh tự nên gọi đó là rỗng không.
Vì không có tướng mạo nên gọi đó là rỗng không, vì không có oai nghi nên gọi đó là rỗng không, vì không có tu hành nên gọi đó là rỗng không, vì không có ngôn thuyết nên gọi đó là rỗng không.
Này thiện nam tử! Trong đệ nhất nghĩa không có các pháp thế nào nói là rỗng không. Ví như hư không không có ngôn không có thuyết, vì không có ngôn thuyết nên gọi là hư không. Trong không có ngôn thuyết cũng không có ngôn thuyết, đây gọi là rỗng không.
Tất cả các pháp cũng như vậy, pháp không có danh tự nói là danh tự, danh tự như vậy cũng không có chỗ trụ ở. Nếu danh tự không có trụ ở thì các pháp dưới danh tự ấy cũng không có chỗ trụ ở.
Như Lai Thế Tôn chân thật biết các pháp như vậy không có sanh không có diệt. Vì chân thật biết nên được giải thoát.
Bổn lai không có hệ phược sao lại gọi là được giải thoát?
Vì lẽ ấy nên Như Lai Thế Tôn không có hệ phược không có giải thoát.
Các pháp như vậy tất cả hàng phàm phu chẳng có thể biết được, vì thế nên Chư Phật Thế Tôn khởi phát lòng đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết.
Này thiện nam tử! Luận về bồ đề ấy đồng như hư không. Tánh hư không chẳng bằng chẳng thấp, bồ đề cũng như vậy. Nếu pháp đã là không có tánh thì chẳng thể nói là có bằng có thấp.
Như Lai Thế Tôn thiệt biết các pháp không có bằng không có thấp nhẫn đến vi trần không có bằng không có thấp.
Nếu pháp có tánh chính là như thiệt trí. Bậc như thiệt trí biết tất cả pháp trước không nay có, đã có lại không, lúc sanh lúc diệt không chỗ hệ thuộc, theo duyên mà sanh, theo duyên mà diệt, do nghĩa này mà gọi là đạo. Do dứt đạo này nên gọi là bồ đề.
Vì các hàng phàm phù chằng biết đạo chân thật như vậy, nên Chư Phật Thế Tôn phát khởi đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ được biết.
Này thiện nam tử! Bồ đề gọi là chân thật cú, chân thật cú ấy tức là bồ đề. Hai cú như vậy đồng nhau không sai khác.
Sắc cũng như vậy, thọ tưởng hành thức, địa thủy hỏa phong, nhãn giới sắc giới nhãn thức giới, nhĩ giới thanh giới nhĩ thức giới, tỷ giới hương giới tỷ thức giới, thiệt giới vị giới thiệt thức giới, thân giới xúc giới thân thức giới, ý giới pháp giới ý thức giới cũng đều như vậy, đây gọi là pháp lưu bố theo thế tục.
Như Lai chân thật biết rõ các ấm nhập giới pháp như vậy không có điên đảo. Bậc chẳng điên đảo biết pháp quá khứ bất sanh bất diệt, biết pháp vị lai bất sanh bất diệt, biết pháp hiện tại cũng bất sanh bất diệt, biết như vậy gọi là chẳng điên đảo, gọi là chân thật cú, chân thật cú ấy, như một pháp thì tất cả pháp cũng như vậy, như tất cả pháp thì một pháp cũng như vậy.
Chân thìệt cú này các hàng phàm phu chẳng biết, vì vậy nên Chư Phật Như Laì phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ được biết.
Này thiện nam tử! Luận về bồ đề ấy, chẳng phải nội chẳng phải ngoại.
Thế nào là nội, thế nào là ngoại?
Không bị tạo tác là chẳng phải nội, không bị giác tri là chẳng ngoại.
Nội ấy có nghĩa là trụ ở, ngoại ấy có nghĩa là tướng dạng. Thể của bồ đề chẳng phải trụ ở chẳng phải tướng dạng, nên gọi bồ đề chẳng phải nội chẳng phải ngoại.
Lại nữa, chẳng phải nội là chẳng phải ba nghiệp thân khẩu và ý, chẳng phải ngoại là chẳng phải ba nghiệp duyên.
Chẳng phải nội là vô tướng giải thoát môn, chẳng phải ngoại là không giải thoát môn. Các nghĩa như vậy hàng phàm phu chẳng biết. Vì thế Chư Phật Như Lai phát khởi tâm đại bi diễn nói chánh pháp cho họ được biết.
Này thiện nam tử! Luận về bồ đề là vô lậu là vô thủ.
Thế nào là vô lậu và thế nào là vô thủ?
Vô lậu là xa lìa bốn lưu, đó là dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu và kiến lưu. Vô thủ là xa lìa bốn thủ, đó là dục thủ, hữu thủ, kiến thủ và giới thủ. Các chúng sanh bị vô minh che trùm luôn đi nơi bốn thủ, do khát ái nên làm ngã và ngã sở.
Như Lai Thế Tôn biết rõ ngã không căn bổn nên ngã thanh tịnh, do ngã thanh tịnh nên có thể thanh tịnh chúng sanh. Ngã thanh tịnh thì chẳng giác tri tất cả các pháp cũng chẳng tư duy tất cả phi pháp, chẳng sanh khởi vô minh, do chẳng khởi vô minh nhân duyên nên chẳng khởi mười hai nhân duyên hữu, hữu nhân duyên chẳng khởi thì bất sanh, vì bất sanh nên nhập vào quyết định tụ.
Quyết định tụ ấy gọi là liễu nghĩa. Liễu nghĩ ấy gọi là đệ nhất nghĩa. Đệ nhất nghĩa ấy gọi là không có chúng sanh. Nghĩa không có chúng sanh gọi là nghĩa bất khả thuyết.
Nghĩa bất khả thuyết chính là nghĩa mười hai nhân duyên. Nghĩa mười hai nhân duyên chính là nghĩa pháp. Nghĩa pháp ấy chính là Như Lai.
Do nghĩa như vậy nên trong Khế Kinh nói nếu có ai thấy được mười hai nhân duyên thì là người thấy pháp. Thấy pháp là thấy Như Lai. Thấy Như Lai ấy chính là không chỗ thấy.
Chỗ thấy là tà, tà kiến ấy đó là pháp tướng số. Như Lai không có tưởng cũng không có tưởng số. Do nơi nghĩa này nên thấy Như Lai là không có chỗ thấy. Nếu thấy Như Lai không có tướng, không có tác, không có tri, không có giác, thì gọi là chân thật thấy Như Lai.
Cũng vậy, Đức Như Lai biết rõ tất cả các pháp bình đẳng như vậy, pháp giới vô lậu vô thủ. Các hàng phàm phu chẳng thể rõ biết được như vậy, vì thế Như Lai Thế Tôn phát khởi tâm đại bi tuyên nói chánh pháp cho họ được biết.
Này thiện nam tử! Luận về bồ đề là thanh tịnh là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Thế nào là thanh tịnh, thế nào là tịch tĩnh, thế nào là quang minh và thế nào là vô tranh?
Chẳng xen tạp phiền não thì gọi đó là thanh tịnh. Không giải thoát môn thì gọi đó là tịch tĩnh. Vô tướng giải thoát môn và vô nguyện giải thoát môn thì gọi đó là quang minh. Vô sanh vô diệt thì gọi đó là vô tranh.
Lại nữa, vô sanh ấy thì gọi đó là thanh tịnh. Vô diệt thì gọi đó là tịch tĩnh. Vô thủ thì gọi là quang minh. Bất xuất thì gọi là vô tranh.
Lại nữa, tánh thì gọi là thanh tịnh. Không có các phiền não thì gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, pháp giới gọi là thanh tịnh. Tánh chân thật gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, tánh hư không gọi là thanh tịnh. Pháp giới vô phân biệt thì gọi là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, nội ngoại thanh tịnh thì gọi đó là thanh tịnh. Nơi các pháp nội và ngoại chẳng thủ lấy chẳng trụ trước, thì gọi đó là tịch tĩnh là quang minh là vô tranh.
Lại nữa, chân thật biết Ngũ ấm thì gọi đó là thanh tịnh. Chân thật biết Thập bát giới thì gọi đó là tịch tĩnh là quang minh. Xa lìa lục nhập thì gọi đó là vô tranh.
Lại nữa, thấy quá khứ tận thì gọi là thanh tịnh. Thấy vị lai chẳng sanh thì gọi là tịch tĩnh. Thấy pháp hiện tại an trụ nơi pháp giới không có động chuyển thì gọi đó là quang minh là vô tranh.
Thanh tịnh tịch tĩnh quang minh và vô tranh, bốn pháp như vậy đồng nhập vào một giới một pháp và một câu. Ba pháp như vậy tức là Niết Bàn.
Vì xa lìa phiền não nên gọi là thanh tịnh, vì rốt ráo thanh tịnh nên gọi là tịch tĩnh, vì không tối tăm nên gọi là quang minh, vì bất khả thuyết nên gọi là vô tranh. Vì thế nên nói Đức Thích Ca Như Lai nín lặng không chỗ nói.
Này thiện nam tử! Luận về bồ đề ấy tức là hư không. Hư không ấy gọi là pháp. Như pháp, chúng sanh cũng vậy. Như chúng sanh, phước điền cũng vậy. Như phước điền, Niết Bàn cũng vậy. Do nghĩa này nên tất cả pháp đồng với Niết Bàn.
Đức Như Lai có thể biết rõ pháp giới như vậy nên gọi là Phật. Tu tập đầy đủ thanh tịnh tịch tĩnh quang minh và vô tranh, bốn câu như vậy thì gọi đó là Phật.
Vì Đức Như Lai có thể biết rõ được thiện phương tiện nên lúc đầu mới được vô thượng bồ đề liền nín lặng an trụ không có tuyên nói để chờ Đại Phạm Vương thưa thỉnh.
Lúc ấy, Thi Khí Đại Phạm Vương cùng sáu vạn tám ngàn vị Phạm Thiên đến chỗ Phật đầu mặt lạy Phật rồi chắp tay tôn kính bạch rằng:
Cầu nguyện Đức Như Lai vì các chúng sanh chuyển chánh pháp luân, lại tiến nói kệ rằng:
Phật Pháp ly thanh tịnh, tịch tĩnh
Đại quang vô ngại, không có tranh
Không chữ, không tiếng cũng không nói
Chân thật biết rõ như pháp giới
Phật vì chúng sanh vô lượng kiếp
Khổ hạnh thọ trì giới thế gian
Để thức tỉnh chúng sanh mê ngủ
Mãi làm phóng dật mê thiệt nghĩa
Còn vô lượng chúng trong hội này
Chứa căn lành nơi vô lượng Phật
Hay hiểu nghĩa sâu nghĩa chân thật
Nguyện Phật chuyển pháp luân vô thượng
Chúng đây đã phục tất cả ma
Muốn đuợc mở bày cửa Cam Lộ
Đức Phật hiệu là chân Đạo Sư
Chỉ đường vô thượng cho chúng sanh
Đức Phật dầu có đại từ bi
Thương mến chúng sanh như con một
Nay tôi thỉnh pháp là đúng thời
Phật chuyển chánh pháp luân vô thượng
Như xưa ba Phật chuyển pháp luân
Nguyện cầu Như Lai nay cũng vậy
Vô lượng Đạo Sư không thối chuyển
Dạy các chúng sanh đạo nhất chân
Như mưa nhuần lớn các cỏ cây
Làm cho chúng sanh hết nóng khát
Phật ban pháp vũ cho chúng sanh
Vì được vô lượng vô thượng quả
Lúc sơ sanh Phật có phát nguyện
Ta sẽ cứu khổ các chúng sanh
Chúng sanh khát mong vị Cam Lộ
Nguyện đại từ bi ban mưa pháp.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Lòng Ham Muốn Dẫn đến đau Khổ
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tát Giá
Phật Thuyết Kinh Tô Tất địa Yết La - Phẩm Bảy - Phẩm Trì Giới
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Hai - Kinh để Dành Sữa
Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Mười - Kim Cang Tạng Hàng Ma Pháp
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Miêu Ly
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Bốn Mươi Sáu - Kinh Trộm Trâu ăn Thịt