Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Mốt - Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát - Phần Sáu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI MỐT
PHÁP HỘI TỰ TẠI VƯƠNG BỒ TÁT
PHẦN SÁU
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát an trụ Vô Tận khí Đà La Ni nói sắc chẳng thể cùng tận như vậy. Lại còn vô lượng vô biên bất khả thuyết phần. Chia một phần này làm ngàn phần, ta ở nơi một phần ngàn ấy còn nói chẳng thể cùng tận. Về Vô Lượng Tế Đà La Ni, chữ tế là nói thường kiến và đoạn kiến, vô lượng là nói mười hai nhân duyên.
Lại nữa, chữ tế là nói vô minh hành thức danh sắc lục nhập xúc thọ ái thủ hữu sanh và lão tử các sự khổ não nhóm họp, vô lượng là nói sanh và tử.
Lại nữa, chữ tế là vô thỉ vô chung, là không có thủ xả, là không sanh không diệt, là không uế không tịnh vì tánh vốn thanh tịnh, là khả kiến, là danh sắc, là hữu vivô vi, là hữu lậu vô lậu, là nghiệp quả nội ngoại trong ba đời, là không nghiệp nhân quả báo thiện và bất thiện ngã và vô ngã sanh tử và Niết Bàn. Vô lượng là vi trần tế đó là địa thủy hỏa phong.
Đây gọi là Vô Lượng Tế Đà La Ni, Đại Bồ Tát an trụ Đà La Ni ấy rồi ở trong vô lượng kiếp vì chúng sanh thuyết pháp, những tự cú nghĩa vị được nói đều chẳng thể cùng tận. Đà La Ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Còn về Đại Hải Đà La Ni, này thiện nam tử! Ví như biển lớn, trong tứ thiên hạ có những hình sắc chúng sanh những cỏ cây dược thọ ngũ cốc mặt nhật mặt nguyệt tinh tú mây rán sương mù sấm chớp quốc độ thành quách tụ lạc thôn ấp điện đường vườn rừng ao hồ núi sông v.v... tất cả hình sắc đều hiện bóng trong biển lớn.
Đại Bồ Tát an trụ Đà La Ni Đại Hải ấy cũng như vậy, tất cả chúng sanh thân khẩu ý nghiệp đều ấn hiện trong thân Đại Bồ Tát, do đây mà những lời nói của Đại Bồ Tát đều chân thật cả.
Chữ ấn ấy có nghĩa là vô sở hữu, đó là các pháp không có giác quán không có ngôn thuyết là vô biên vô tác vô tham, đây gọi là nghĩa đệ nhất chân thật.
Còn có giá ấn, giá là nói nhãn, nhãn là vô thường có thể tịnh có thể thấy.
Còn có na ấn, na là nói danh, vì tất cả các pháp nên danh thiệt vô danh.
Còn có la ấn, la là nói thế, tất cả thế gian thuộc ái và vô minh.
Còn có đà ấn, đà là nói thập, Đức Phật Thế Tôn có thập lực hay hóa độ chúng sanh.
Còn có ba ấn, ba là nói ngũ, Đức Như Lai xa lìa trừ dứt ngũ dục chứng được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Còn có sát ấn, sát là nói lục, vì Đức Như Lai chân thật biết rõ lục nhập nên có thể điều phục tất cả chúng sanh, vì Đức Như Lai đủ lục niệm xứ nên được đại tự tại, vì Đức Như Lai có lục thần thông nên dùng thần thông giáo hóa chúng sanh.
Còn có bà ấn, bà là nói tả, vì Đức Như Lai lìa tả đạo nên được vô thượng bồ đề.
Còn có đa ấn, đa là nói thiệt, vì Đức Như Lai biết rõ tánh chân thật, nên gọi là Chánh Giác.
Còn có na ấn, na là nói bỉ, vì Đức Như Lai biết khắp các pháp thủ bỉ đều bình đẳng.
Còn có bà ấn, bà là nói kiết, vì Đức Như Lai xa lìa tất cả phiền não kiết sử nên gọi là A lê ha.
Còn có xà ấn, xà là nói sanh lão, vì Đức Như Lai đã khỏi phần sanh lão nên gọi là Thế Tôn.
Còn có đàm ấn, đàm là nói pháp, Đức Như Lai thuyết pháp thanh tịnh vô cấu.
Còn có xa ấn, xa là nói xa ma tha.
Còn có khư ấn, khư là nói hư không, Đức Như Lai thấy biết tất cả các pháp đồng như hư không.
Còn có ca ấn, ca là nói khổ hạnh, Đức Như Lai xa lìa tất cả khổ hạnh.
Còn có bà ấn, bà là nói chân thật, tứ đế được Đức Như Lai nói tức là chân thật.
Còn có ma ấn, ma là nói đạo, Đức Như Lai hay nói pháp bát chánh đạo.
Còn có già ấn, già là nói thâm, pháp được Đức Như Lai nói nghĩa rất thậm thâm.
Còn có sằn ấn, sằn là nói nhẫn, Đức Như Lai có đủ nhẫn Ba la mật.
Còn có hô ấn, hô là nói tán, Đức Như Lai thường tán thán thập phương Chư Phật.
Còn có nhược ấn, nhược là nói biến tri, Đức Như Lai biết rõ khắp tất cả pháp nên gọi là bậc nhất thiết trí.
Còn có bà ấn, bà là nói hữu, Đức Như Lai đã thoát khỏi tất cả hữu.
Còn có xa ấn, xa là nói dục, Đức Như Lai muốn tất cả pháp lành.
Còn có ba ấn, ba là nói tiền, Đức Như Lai thường vì chúng sanh hiện tiền thuyết pháp.
Còn có phả ấn, phả là nói quả, Đức Như Lai thường nói bốn quả Sa Môn.
Này thiện nam tử! Nhân chữ như vậy mà diễn nói các pháp, đó là các chữ đều ấn hiện nơi miệng Đại Bồ Tát. Đây gọi là Đại Hải Đà La Ni. Luận về Liên Hoa Đà La Ni ấy, Đại Bồ Tát an trụ Đà La Ni này rồi chỗ thuyết pháp thường xuất hiện Thất Bảo Liên Hoa thanh tịnh vi diệu để làm pháp tòa, Đại Bồ Tát ngồi bảo tòa ấy mà thuyết pháp giáo hóa, lại còn nhiều khi mưa tuôn vô lượng Liên Hoa, các Liên Hoa này cũng phát ra các thứ pháp âm thanh tịnh, âm thanh ấy sâu rộng diễn xuất nhiều phương tiện ví dụ.
Những là pháp âm mười hai Bộ Kinh, pháp âm thanh tịnh, pháp âm dứt phiền não, lúc ấy Đại Bồ Tát ngồi yên lặng mà các Liên Hoa đều có thể diễn xuất pháp âm.
Cũng còn phát xuất vô lượng các loại quang minh mà tất cả chúng sanh đều thấy. Đại Bồ Tát ngồi trên đài các Liên Hoa mà làm Phật Sự. Đây gọi là Liên Hoa Đà La Ni.
Luận về Nhập Vô Ngại Môn Đà La Ni ấy, Đại Bồ Tát an trụ Đà La Ni này lúc nói một pháp không có chướng ngại, hoặc lúc nói hai pháp ba pháp bốn pháp trăm pháp ngàn pháp trăm ngàn Vạn pháp vô lượng vô biên hằng hà sa số pháp cũng không có chướng ngại.
Cho đến lúc nói pháp số bằng số vi trần trong tứ thiên hạ, bằng số vi trần đại thiên Thế Giới, bằng số vi trần trong hằng hà sa Chư Phật Thế Giới, nơi các chữ câu nghĩa không có chướng ngại, đây gọi là Nhập Vô Ngại Môn Đà La Ni vậy.
Luận về Tứ Vô Ngại Trí Đà La Ni ấy, đó là pháp vô ngại trí, nghĩa vô ngại trí, từ vô ngại trí và lạc thuyết vô ngại trí.
Đại Bồ Tát an trụ Đà La Ni này, Đông phương vô lượng Thế Giới chúng sanh có ai thưa hỏi pháp yếu, Đại Bồ Tát theo đó dùng pháp vô ngại để giải đáp, Nam phương vô lượng Thế Giới chúng sanh có ai hỏi nghĩa, Đại Bồ Tát tùy thuận dùng nghĩa vô ngại để đáp.
Tây Phương vô lương Thế Giới chúng sanhcó ai hỏi về từ, Đại Bồ Tát tùy thuận dùng từ vô ngại để đáp, Bắc phương vô lượng Thế Giới chúng sanh có ai hỏi lạc thuyết, Đại Bồ Tát tùy thuận dùng lạc thuyết vô ngại để đáp. Đây gọi là Tứ Vô Ngại Trí Đà La Ni.
Luận về Phật Anh Lạc Trang Nghiêm Đà La Ni ấy, nếu có Đại Bồ Tát được Đà La Ni thứ tám này thì trên đỉnh kế có Tượng Phật màu chân kim xuất hiện, Tượng Phật ấy có ánh sáng lớn đủ ba mươi hai tướng Đại Nhân tám mươi vẻ đẹp, bấy giờ Đại Bồ Tát thân khẩu ý đều làm Phật Sự, chỗ tư niệm như Phật tư niệm.
Đại Bồ Tát có đủ Phật nghiệp như vậy có thể biết các loại tâm niệm của đại chúng, biết rồi tùy ý mà vì đại chúng thuyết pháp trong một ngày hai ngày cho đến vô lượng trăm ngàn vạn năm cũng chẳng thể cùng tận chỗ hiểu biết pháp môn văn tự cú nghĩa của Đại Bồ Tát.
Lại còn có đủ bốn thứ trí huệ, đó là biết tâm niệm của các chúng sanh, biết các tự cú, biết chỗ nói vô tận và biết chân thật.
Do có đủ bốn thứ trí ấy mà Đại Bồ Tát có thể giáo hóa chúng sanh hướng đến vô thượng bồ đề. Đây gọi là Phật Anh Lạc Trang Nghiêm Đà La Ni.
Này thiện nam tử! Tám môn Đà La Ni ấy phần của nó vô lượng, trong vô lượng phần này đem một phần chia làm ngàn phần, trong ngàn phần ấy chỉ nói một phần còn chẳng thể cùng tận. Các Đà La Ni ấy thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Muốn tuyên lại nghĩa ấy, Đà La Ni Tự Tại Vương Đại Bồ Tát nói tụng rằng:
Như Lai nói tám Đà La Ni
Nếu Đại Bồ Tát có được rồi
Hiểu được các nghĩa của Khế Kinh
Cú nghĩa từ chẳng thể cùng tận
Đầy đủ nghiệp lành được diệu thanh
Hay khiến vô lượng Thế Giới nghe
Chúng sanh nghe rồi tu pháp lành
Tu rồi chứng được chân giải thoát
Vô lượng kiếp nói một pháp vô
Nhân một pháp vô nói vô tận
Cũng do một chữ hiểu nhiều nghĩa
Đây gọi Phật nói tế tổng trì
Thế Tôn Pháp Vương dứt hai tế
Thuyết Pháp đạo nghĩa vô biên tế
Có trí huệ bình đẳng quan sát
Dầu thành tổng trì không người được
Hình sắc bốn phương hiện trong biển
Tất cả tự ấn ấn Bồ Tát
Lúc thuyết pháp không có chướng ngại
Thành tựu Đại Hải Đà La Ni
Ngồi tòa Liên Hoa diễn thuyết pháp.
Cũng mưa Liên Hoa rải đại chúng
Liên Hoa cũng nói vô lượng pháp
Đây là Liên Hoa Đà La Ni
Nói một chữ không có chướng ngại
Nói vô lượng chữ cũng vô ngại
Nói vô lượng nghĩa không có trệ
Đây gọi Vô Ngại Đà La Ni
Nói pháp nghĩa sâu không cùng tận
Từ và lạc thuyết cũng vô biên
Hay phá chúng sanh lưới tâm nghi
Chứng được vô thượng trí tổng trì
Đảnh kế thường hiện tượng Như Lai
Thân khẩu ý cùng Phật không khác
Nếu có tổng trì thứ tám ấy
Cùng kiếp khen nói chẳng hết được
Đầy đủ tám tổng trì như vậy
Thế gian chẳng nhiễm như hoa sen
Thế gian cao nhất như Tu Di
Chẳng thể đếm kể cũng như vậy
Tà luận chẳng động hay phá tà
Bồ Tát có đủ tổng trì này
Hay phá đạo các tà kiến
Như tiếng rống sư tử giữa rừng
Nếu được vô thượng Đà La Ni
Hay đạt thế gian hạnh thanh tịnh
Hay tăng vô lượng các pháp lành
Cũng hay giáo hóa các chúng sanh
Có đủ Đà La Ni như vậy
Hay phá chúng sanh tối vô minh
Làm ánh sáng lớn như mặt trời
Cũng hay phá trừ những đen tối
Thuyết pháp vô ngại như hư không
Vì chúng mà đi như gió mạnh
Ban bố thuốc pháp trừ phiền não
Như thầy thuốc hay chữa lành bệnh
Nếu có đủ vô thượng tổng trì
Ai khen công đức chẳng thể hết
Hay làm mát sáng như Trăng thu
Tăng trưởng pháp lành cũng như vậy
Bồ Tát chứng được tổng trì này
Hay độ vô lượng các chúng sanh
Nếu đủ tám Đà La Ni này
Được đại tự tại như Thiên Vương
Hay độ chúng sanh hướng đại thừa
Hay ban pháp tài phá bần cùng
Hay mưa pháp vũ như Long Vương
Phá nát phiền não như mưa đá
Nếu được tám Đà La Ni này
Hay độ chúng sanh đến bồ đề
Không nói lỗi được như Đế Thích
Chữ nghĩa vô tận như hư không
Nếu được thành tựu Đà La Ni
Tất cả đại chúng thích thấy nghe
Tâm ý chẳng tán thường tại định
Tu tập vô lượng tâm từ bi
Phạm hạnh thanh tịnh hiện thần thông
Bốn vô lượng như Đại Phạm Vương
Nếu được thành tựu Đà La Ni
Liền hay cúng dường mười phương Phật
Nhìn xem thấy rõ mười phương cõi
Nơi Thế Giới ấy độ chúng sanh
Nếu được đủ Đà La Ni này
Liền được đầy đủ Phật công đức
Thường được mười phương Phật hộ niệm
Cũng như cha mẹ nhớ con một
Nếu Bồ Tát được tổng trì này
Hay khen Phật công đức vô lượng
Thành tựu đầy đủ giới định huệ
Hay hiểu chúng sanh tâm sở hành
Nếu được thành tựu Đà La Ni
Không còn kiêu mạn và xan tham
Giỏi biết phương tiện dạy chúng sanh
Tu tập từ bi phá phiền não
Thành tựu được Đà La Ni này
Phiền não chẳng nhiễm như hư không
Hiểu rõ chúng sanh lời tùy ý
Cũng hay tùy ý diễn thuyết pháp
Nếu có đủ Đà La Ni này
Hay biết rõ căn của chúng sanh
Hay hiểu chỗ hiểu của chúng sanh
Theo chúng sanh hiểu mà thuyết pháp
Theo môn đối trị vì họ nói
Ba mươi bảy phẩm dạy chúng sanh
Được có tám Đà La Ni này
Tu tập vô biên xa ma tha
Được có tám Đà La Ni này
Đủ sáu Ba la mật như Phật
Biết rõ tất cả giới phiền não
Thông đạt tịch tĩnh phiền não dứt
Thân khẩu ý nghiệp đều tịch tĩnh
Hành trụ tọa ngọa đều tịch tĩnh
Được thành tựu tám Đà La Ni
Không còn phiền não các tập khí
Được pháp thân thanh tịnh vô biên
Chẳng phải bị sanh thường hóa sanh
Thân khẩu ý theo trí huệ hành
Bao nhiêu định niệm cũng theo trí
Thành tựu được Đà La Ni này
Không ai tán thán cùng tận được.
Lúc bấy giờ, Đức Như Lai Thế Tôn khen Đà La Ni Tự Tại Vương Đại Bồ Tát: Lành thay, lành thay!
Này thiện nam tử! Từ lâu ông đã được Đà La Ni này hay phân biệt giải nói bao nhiêu nghĩa vô lượng công đức. Chẳng phải chỉ có hôm nay, mà đã ở chỗ vô lượng Chư Phật quá khứ cũng phân biệt giải nói như vậy.
Này thiện nam tử! Quá khứ vô lượng A tăng kỳ kiếp, có Đức Phật Hiệu là Tịnh Quang Minh Như Lai, Thế Giới ấy tên Tịnh Kiếp cũng tên là Tịnh Thuần, Thế Giới ấy bằng tịnh lưu ly làm thành như gương sáng, mặt đất bằng phẳng, bao nhiêu rừng cây toàn bằng Thất Bảo, có hoa sen diệu bảo lớn như bánh xe, hoa sen ấy thanh tịnh tươi sáng ai thấy đều thích.
Nhân dân cõi ấy đều ở lâu các điện đường bằng Thất Bảo không khác Cõi Trời, đã lần nhẹ mỏng lòng tham sân si. Cõi ấy không có mặt nhật mặt nguyệt chỉ có ánh sáng của Đức Phật. Hoa sen sanh nở thì biết là đêm, hoa sen đỏ nở thì biết là ngày.
Đại Bồ Tát Tăng có sáu trăm vạn ức, người xuất gia đông nhiều không thể kể đếm, tất cả đều có chí nguyện vô thượng Đại Thừa. Thế Giới ấy không có tên Nhị Thừa, tất cả đều là bậc Bồ Tát Bất Thối Chuyển.
Đức Phật Tịnh Quang Minh thọ đủ nửa kiếp, người và Chư Thiên đồng nhau không khác, ở đất thì là người, còn ở hư không là Trời, không có Vua Chúa, chỉ có Phật là vị Pháp Vương vô thượng.
Nhân dân cõi ấy không có ai tôn thờ hay quy y với Chư Thiên tà thần, cũng không có danh từ nữ nhân và phá giới.
Tất cả đều đủ ba tụ giới, đó là theo Chánh giới, theo định giới và theo huệ giới. Phát tâm vô thượng bồ đề nhàm chán sanh tử, đây gọi là theo chánh giới, tu Tam Muội huệ đây gọi là theo định giới, tu tập trí huệ được đại trí huệ đây gọi là theo huệ giới.
Trong đại chúng ấy có một Bồ Tát hiệu là Quang Đảnh lễ Phật hữu nhiễu cung kính quỳ dài chắp tay bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nói Đà La Ni ấy, thế nào gọi là Đà La Ni. Bồ Tát an trụ trong Đà La Ni nào thì có thể thọ trì tất cả danh hiệu của Chư Phật rồi vì các chúng sanh mà phân biệt giải nói.
Đức Tịnh Quang Minh Như Lai nói: Này Quang Đảnh! Có Đà La Ni tên là Bảo Cự, Bồ Tát an trụ trong ấy thì có thể thọ trì tất cả danh hiệu của Chư Phật rồi vì chúng sanh mà phân biệt giải nói tùy theo các thứ ngữ ngôn của các loại chúng sanh.
Quang Minh Bồ Tát bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Xin phân biệt nói rộng Đà La Ni Bảo Cự ấy. Chúng tôi nghe rồi sẽ thọ trì tu tập.
Đức Tịnh Quang Minh Như Lai nói: Lành thay lành thay! Ông chí tâm lắng nghe. Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
Đức Tịnh Quang Minh Như Lai nói kệ rằng:
Xa lìa tất cả các phiền não
Thanh tịnh vô cấu như bảo châu
Tâm ấy hay làm đại quang minh
Đây tên Bảo Cự Đà La Ni
Thân khẩu ý nghiệp đều tịch tĩnh
Dường như Trăng thu rất sáng sach
Tu tập đại từ tâm bình đẳng
Đây gọi Bảo Cự Đà La Ni
Tâm ấy không có các giác quán
Đều được xa lìa hai kiến chấp
Chẳng phải có tưởng không có tưởng
Đây gọi Bảo Cự Đà La Ni
Thành tựu đầy đủ niệm ý huệ
Hay nhập vô thượng đại pháp môn
Thanh tịnh vô cấu như hư không
Đây tên Bảo Cự Đà La Ni
Xa lìa ba loại trần lao nhơ
Thành tựu ba thứ thanh tịnh huệ
Đã được giải thoát cả ba cõi
Đây tên Bảo Cự Đà La Ni
Đã hay phá hoại tham sân si
Cũng xa lìa được phiền não trược
Trừ được vô minh các tà ám
Đây gọi Bảo Cự Đà La Ni
Chúng sanh âm thanh thượng trung hạ
Tất cả đều hay biết rành rẽ
Hay theo ý chúng mà thuyết pháp
Đây gọi Bảo Cự Đà La Ni
Đầy đủ thậm thâm vô lượng nghĩa
Tất cả chữ câu cũng đầy đủ
Xa lìa chấp ngã và ngã sở
Đây tên Bảo Cự Đà La Ni
Đầy đủ thành tựu pháp Tứ y
Cũng thành đủ bốn trí vô ngại
Tâm ấy thường ở trong Tứ Thiền
Đây tên Bảo Cự Đà La Ni
Hay rộng phân biệt đệ nhất nghĩa
Đầy đủ được toàn bốn phạm hạnh
Tu tập đầy đủ ngũ thần thông
Đây gọi Bảo Cự Đà La Ni
Thọ trì chuyên nhớ tứ niệm xứ
Tinh tiến tu tập tứ chánh cần
Trang nghiêm thành tựu tứ như ý
Đây gọi Bảo Cự Đà La Ni
Thành tựu ngũ căn và ngũ lực
Tà phong chẳng động hay phá tà
Tu tập vô thượng Thất giác phần
Đây tên Bảo Cự Đà La Ni
Thành tựu định huệ đủ hai cánh
Liệng bay tự tại bát chánh đạo
Hướng đến vô thượng trí giải thoát
Đây tên Bảo Cự Đà La Ni
Hay đi trên đường Bồ Tát đi
An trụ vô thượng chân giải thoát
Dứt hẳn tất cả phiền não tập
Đây gọi Bảo Cự Đà La Ni
Hay làm vô lượng đại quang minh
Dường như thế gian mặt nhật nguyệt
Hay tịnh ba thứ thanh tịnh nhãn
Đây gọi Bảo Cự Đà La Ni
Hay sạch tất cả các phiền não
Cũng hay xa lìa các ma nghiệp
Quán xét tội lỗi ham Ngũ ấm
Đây tên Bảo Cự Đà La Ni
Giỏi biết điều phục các chúng sanh
Lìa hẳn nhân duyên của sáu căn
Vì chúng thuyết pháp cho được niệm
Đây tên Bảo Cự Đà La Ni
An trụ như vậy Đà La Ni
Hay đến mười phương Phật Thế Giới
Thấy Phật chí tâm nghe thọ pháp
Cũng hay nói rộng pháp như vậy
Đã nghe pháp rồi chí tâm trì
Hay vì chúng sanh nói tự nghĩa
Do nơi nhân duyên sức niệm lớn
Hay hiểu Chư Phật lời vi diệu
Hay nói vô thường khổ vô ngã
Các pháp đều từ duyên được quả
Quán sát tỏ rõ các pháp giới
Đây gọi Bảo Cự Đà La Ni
Thành tựu lạc thuyết vô ngại trí
Tam minh tam huệ cũng thành tựu
Nếu ai an trụ tổng trì này
Thì hay nhập được nghĩa giải thoát
Phật nói vô lượng Đà La Ni
Đều đến nhiếp vào tổng trì này
Nếu được như vậy Đà La Ni
Gọi là thành tựu vô lượng trì
Nếu nhập vô lượng các thiền định
Và được vô lượng các thần thông
Đều do sức tổng trì như đây
Nên hiệu Vua trong các tổng trì
Như bốn đại hải không chướng ngại
Tất cả sông suối đều chảy vào
Các dòng chánh pháp cũng như vậy
Thảy đều về tự tổng trì này
Được thân vô biên ý vô tận
Hay rộng phân biệt nói pháp giới
Thành tựu vô lượng các công đức
Mới hay được đây Đà La Ni
Nếu được vi diệu tổng trì này
Thì được tướng tốt ba mươi hai
Sắc thân thù thắng thượng chủng tánh
Của cải nhiều dư được vô sanh
Hay rộng phân biệt các pháp nghĩa
An trụ bất động bất thối địa
Đều do được Đà La Ni này
Bồ Tát nếu muốn tu bồ đề
Nên tu như vậy Đà La Ni
Được tổng trì rồi tu Đạo Tràng
Hay diễn thuyết pháp độ chúng sanh
Trong vô lượng kiếp lúc thuyết pháp
Hai thứ tự nghĩa chẳng thể hết
Hay sạch chúng sanh các phiền não
Do được như vậy Đà La Ni
Hay chuyển vô thượng chánh pháp luân
Hay làm chúng sanh thoát các khổ
Hay đưa chúng sanh vô thượng đạo
Do được như vậy Đà La Ni
Nếu có chúng sanh ngàn muôn miệng
Một miệng có đủ ngàn muôn lưỡi
Nói chẳng hết vô lượng công đức
Của Bồ Tát trụ tổng trì này.
Lúc Tịnh Quang Minh Như Lai nói pháp ấy, Quang Đảnh Bồ Tát cùng ba vạn hai ngàn Bồ Tát đều chứng được Bảo Cự Đà La Ni.
Này Đà La Ni Tự Tại Vương! Ông có biết thuở xa xưa Quang Đảnh Bồ Tát là ai chăng, chính là thân ông hiện nay.
Vì vậy mà hôm nay ông có thể rộng phân biệt Đà La Ni này. Trong Pháp Hội đây, người được Đà La Ni này, ông là người hạng nhất vậy.
Bấy giờ trong Pháp Hội có một Bồ Tát hiệu Huệ Tự bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát được Bảo Cự Đà La Ni, được rồi chẳng mất có thể dùng pháp ấy điều phục chúng sanh?
Đức Phật bảo Huệ Cự Bồ Tát: Này thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát an trụ huệ căn tạo tác huệ nghiệp. Bồ Tát như vậy có thể được Bảo Cự Đà La Ni, được rồi chẳng mất và hay dùng pháp ấy điều phục các chúng sanh.
Huệ Tự Bồ Tát lại bạch Đức Phật: Lành thay Đức Thế Tôn! Xin nói rộng thế nào là huệ căn và thế nào là huệ nghiệp.
Đức Phật phán bảo: Lành thay lành thay!
Này thiện nam tử! Ông nên lắng nghe kỹ, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.
Này thiện nam tử! Nếu có Thiện Nam Thiện Nữ chưa được trí huệ mà được nghe đó, đây gọi là căn, nghe rồi rộng diễn nói thì gọi là nghiệp.
Dùng huệ quán các pháp thì gọi là căn, quán rồi rộng diễn nói thì gọi là nghiệp. Lúc đầu quán thiện căn thì gọi là căn, quán rồi cộng diễn nói thì gọi là nghiệp. Quán bất phóng dật thì gọi là căn, quán rồi đem dạy lại thì gọi là nghiệp. Điều phục tự tâm thì gọi là nghiệp.
An trụ tịch tĩnh thì gọi là căn, thanh tịnh thân khẩu ý thì gọi nghiệp. Biết rõ nhất thừa thì gọi là căn, vì chúng sanh diễn nói thì gọi là nghiệp. Tu xa ma tha thì gọi là căn, có đủ ba thứ huệ thì gọi là nghiệp.
Tu tập ba môn giải thoát thì gọi là căn, chứng được ba thứ huệ thì gọi là nghiệp.
Tu tứ niệm xứ thì gọi là căn, chẳng niệm nơi niệm thì gọi là nghiệp.
Tu tập tứ chánh cần thi gọi là căn, lìa tánh phiền não thì gọi là nghiệp.
Tu tập tứ như ý túc thi gọi là căn, biết không có như ý thi gọi là nghiệp.
Tu tập tín tâm thi là căn, phóng xả tất cả thì gọi là nghiệp.
Tu vô sở úy thì gọi là căn, hay nói rộng đó thì gọi là nghiệp.
Tu tập tam muội thì gọi là căn, biết chánh định thứ đệ thi gọi là nghiệp.
Tu tập trí huệ thì gọi là căn, biết rõ tất cả pháp thì gọi là nghiệp.
Trang nghiêm bồ đề thì gọi là căn, lúc chứng được bồ đề thì gọi là nghiệp. Chứng khổ tập đạo đế thì gọi là căn, lúc chứng diệt đế thì gọi là nghiệp. Chẳng y bất liễu nghĩa thì gọi là căn, y Kinh liễu nghĩa thì gọi là nghiệp.
Ban đầu nghe thọ chánh pháp thì gọi là căn, y chỉ nơi người thì gọi là nghiệp. Chẳng y nơi người thì gọi là căn, y chỉ chánh pháp thì gọi là nghiệp. Thấy pháp vô thường thì gọi là căn, thấy pháp vô sanh vô diệt thì gọi là nghiệp.
Biết các pháp khổ thì gọi là căn, biết pháp vô tác thì gọi là nghiệp. Biết pháp vô ngã thì gọi là căn, biết pháp tánh thanh tịnh thì gọi là nghiệp.
Biết Niết bàn thanh tịnh thì gọi là căn, biết pháp vốn thanh tịnh thì gọi là nghiệp. Nghe chân pháp chẳng sợ thì gọi là căn, y chỉ chân pháp thì gọi là nghiệp. Biết chữ chẳng sợ thì gọi là căn, biết rồi thích nói thì gọi là nghiệp.
Nghe nói trí lực của vô ngại của Như Lai mà chẳng sợ thì gọi là căn, y chỉ trí lực vô ngại của Như Lai thì gọi là nghiệp. Chúng sanh duyên từ bi và pháp tánh duyên từ bi hai duyên ấy gọi là căn, vô duyên từ bi thì gọi là nghiệp.
Thương xót chúng sanh thì gọi là căn, hay làm cho chúng sanh thoát khổ thì gọi là nghiệp. Tư duy thiện pháp được mừng gọi là căn, chẳng trụ trước nơi pháp thì gọi là nghiệp.
Không có ái tham, sân hận và ngu si thì gọi là căn, không có nhất không có hai thì gọi là nghiệp. Niệm Phật gọi là căn, niệm pháp thân thì gọi là nghiệp.
Niệm pháp gọi là căn, biết pháp tánh thanh tịnh thì gọi là nghiệp. Niệm Tăng gọi là căn, biết Tăng vô vi thì là nghiệp. Niệm giới gọi là căn, biết không có người trì giới gọi là nghiệp. Niệm bố thí thì gọi là căn, hay bỏ phiền não thì gọi là nghiệp.
Niệm thiên gọi là căn, được thanh tịnh thiên thì gọi là nghiệp. Nghe chánh pháp rồi tư duy thì gọi là căn, chẳng nhiễm trước thế gian thì gọi là nghiệp.
Biết trước không có hiện nay làm ra thì gọi là căn, biết không có tạo tác không có lãnh thọ thì gọi là nghiệp. Biết tên Niết Bàn thì gọi là căn, được đại giải thoát thì gọi là nghiệp.
Tự tại gọi là căn, tự lợi lợi tha thì gọi là nghiệp. Thọ trì tám vạn bốn ngàn pháp môn thì gọi là căn, thông đạt nghĩa của các pháp môn ấy thì gọi thì gọi là nghiệp.
Hay diễn thuyết pháp thì gọi là căn, hiểu vô minh v.v... thì gọi là nghiệp. Khuyến hóa các chúng sanh hướng đạo bồ đề thì gọi là căn, khuyến tu trí huệ phương tiện bất thối thì gọi là nghiệp.
Chẳng sơ các cõi thì gọi là căn, nguyện sanh vào các cõi thì gọi là nghiệp. Từ nơi nghe chánh pháp mà đắc nhẫn thì gọi là căn, do tư duy mà đắc nhẫn thì gọi là nghiệp. Tùy ý đắc nhẫn thì gọi là căn, nhân bất sanh mà đắc nhẫn thì gọi là nghiệp.
Còn dư một đời thì gọi là căn, thân tối hậu thì gọi là nghiệp. Ngồi dưới bồ đề thọ thì gọi là căn, giác ngộ tất cả pháp thì gọi là nghiệp.
Lúc Đức Thế Tôn nòi rộng về huệ căn và huệ nghiệp, tất cả mười phương Chư Phật Thế Giới đến đại bảo phường đinh này đều chấn động sáu cách.
Huệ Tụ Đại Bồ Tát bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Có nhân duyên gì mà mười phương Thế Giới và cả hư không cùng Thất Bảo đại phường đình này đều chấn động sáu cách như vậy?
Đức Phật phán dạy: Này Huệ Tụ! Vì huệ căn và huệ nghiệp này cũng được diễn nói nơi Chư Phật quá khứ nên có sáu cách chấn động như vậy.
Bấy giờ Cụ Túc Tứ Vô Ngại Trí Bồ Tát bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Có nhân duyên gì mà Huệ Tụ Đại Bồ Tát có tên là Tụ?
Đừc Phật phán dạy: Này Cụ Túc Tứ Vô Ngại Trí! Thuở quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp có Phật xuất thế hiệu là Công Đức Tạng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, Thế Giới ấy tên Thiện Sanh, kiếp ấy tên Vô Cấu, tất cả chúng sanh cõi ấy đều thuần thiện. Phật Công Đức Tạng có ba vạn hai ngàn Đại Bồ Tát chúng, tám vạn bốn ngàn Thanh Văn chúng.
Phật Công Đức Tạng muốn thử chư vị Bồ Tát với trăm ức sự hỏi rằng: Các thiện nam tử! Trong chúng có ai hiểu và nói được các nghĩa như vậy?
Trong chúng có Bồ Tát bạch rằng tôi sẽ tư duy trong một thánh mới có thể hiểu được, hoặc có Bồ Tát bạch nửa tháng, hoặc bảy ngày, hoặc một ngày một đêm tư duy mới có thể hiểu được.
Lúc ấy có một Bồ Tát tên Niệm Ý bạch Phật rằng: Nay tôi chẳng rời chỗ ngồi này liền có thể hiểu nghĩa ấy.
Bạch Phật xong, Bồ Tát Niệm Ý khởi sư tử hống làm cho Đại Địa chấn động sáu cách phóng đại quang minh khuyến cáo các Địa Thần cho đến Trời Sắc Cứu Cánh tất cả đều đến tập họp nơi Đức Phật Công Đức Tạng.
Chỗ ngồi của đại chúng lúc bấy giở rộng đủ trăm vạn do tuần. Niệm Ý Bồ Tát thấy đại chúng đã tập họp đông đủ liền dùng thần thông lực, trí huệ niệm lực, Đà La Ni lực, tứ vô ngại lực, vô sở úy lực, Phật thần lực trong trăm ức sự, mỗi mỗi sự giải nói trăm ức nghĩa, không tư duy trước không có đình trệ.
Niệm Ý Bồ Tát nói nghĩa ấy rồi, trong đại chúng có sáu vạn chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề, bốn vạn chúng sanh đắc vô sanh nhẫn.
Tứ chư Địa Thần, Chư Thiên đến Trời Sắc Cứu Cánh, tất cả đều nghe tiếng Niệm Ý Bồ Tát thuyết pháp.
Này Cụ Túc tứ Vô Ngại Trí! Ông có biết thuở quá khứ xa xưa ấy Niệm Ý Bồ Tát là aì chăng?
Chính là Huệ Tụ Bồ Tát đây vậy. Do nhân duyên như vậy mà Bồ Tát có tên là Huệ Tụ.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Vì nghe thuyết pháp gọi là căn
Hay diễn thuyết pháp gọi là nghiệp
Tư duy pháp lành gọi là căn
Hiểu nói thâm nghĩa gọi là nghiệp
Như pháp mà ở gọi là căn
Theo nghĩa thuyết pháp gọi là nghiệp
Tu xa ma tha gọi là căn
Đủ ba thứ huệ gọi là nghiệp
Bốn thứ niệm xứ gọi là căn
Pháp tứ chánh cần gọi là nghiệp
Tín tiến niệm định huệ là căn
Năm thứ đắc lực gọi là nghiệp
Thất bồ đề Phần gọi là căn
Bát chánh đạo phần gọi là nghiệp
Chẳng y chỉ tự cú là căn
Y chỉ nơi nghĩa gọi là nghiệp
Chẳng y chỉ người gọi là căn
Y chỉ chánh pháp gọi là nghiệp
Chẳng y bất liễu gọi là căn
Y kinh liễu nghĩa gọi là nghiệp
Chẳng y nơi thức gọi là căn
Y chỉ trí huệ gọi là nghiệp
Biết rõ vô tác gọi là căn
Thông đạt vô sanh gọi là nghiệp
Sanh pháp hai duyên từ là căn
Từ bi vô duyên gọi là nghiệp
Vô sở úy pháp gọi là căn
Hay tuyên chánh pháp gọi là nghiệp
Sáu chánh niệm xứ gọi là căn
Nghĩa của lục niệm gọi là nghiệp
Hay tự lợi ích gọi là căn
Tự lợi lợi tha gọi là nghiệp
Thọ trì chánh pháp gọi là căn
Hay vì người nói gọi là nghiệp
Còn dư lại một đời là căn
Tối hậu thân thì gọi là nghiệp
Nếu tâm Bồ Tát được bất thối
Thì hay biết rõ huệ căn nghiệp
Có thể chứng được vô sanh nhẫn
Có thể mở cửa đại bồ đề.
Đà La Ni Tự Tại Vương Đại Bồ Tát bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Pháp được Đức Phật nói chẳng thể nghĩ bàn, vô thượng bồ đề cũng chẳng thể nghĩ bàn. Tại sao, vì chẳng phải là danh tự để nói, vì chẳng nhiếp thuộc danh tự, vì pháp được Như Lai nói vô lượng vô biên, vì nhập vào vô lượng vô biên pháp môn, vì thập nhị nhân duyên rất sâu khó hiểu, vì kẻ chấp thấy hai pháp thì chẳng biết được, vì người lợi trí lần lần biết, vì chẳng phải lục tình chỗ biết được, vì chẳng phải cảnh giới của trí huệ nhị thừa.
Bạch Đức Thế Tôn! Vô thượng bồ đề như vậy đều là ấn của tất cả pháp, chẳng thể tạo tác được như hư không, rời lìa nhà cửa nên chẳng phải nhà cửa, biết tất cả hành cũng biết tất cả nhân quả của tất cả chúng sanh.
Nhất Thiết trí rộng lớn vô biên, trang nghiêm tất cả vô lượng pháp lành, hay vì pháp lành mà làm bát đựng thần thông để hiển bày cho người, với người ở nhị đạo dạy cho vô nhị, dạy cho hiểu Chư Phật bình đẳng vô sai biệt, không có tự không có nghĩa chẳng thể tuyên nói được.
Chẳng thể lắng nghe được, hay dạy chúng sanh khối chánh Tam Bảo và ba môn giải thoát, giải thoát ba cõi dạy cho ba thứ huệ, do kim cương định an trụ tất cả chánh pháp Chư Phật, nghe trọn tất cả Chư Phật trí huệ, lợi ích tất cả chúng sanh, cũng hay tuyên thuyết tất cả Phật Pháp.
Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam thiện nữ có thể tán thán bồ đề vô thượng có bao nhiêu công đức như vậy được nghe Kinh Điển Đại Thừa phương đẳng này, hay thọ trì đọc tụng biên chép diễn nói, thì gọi người ấy là có thể báo được ơn Chư Phật.
Đức Phật phán dạy: Đúng như vậy, này Đà La Ni Tự Tại Vương. Như lời ông đã nói được vô lượng công đức.
Này thiện nam tử! Đem Thất Bảo đầy cả mười phương Thế Giới Chư Phật dâng hiến lên Như Lai được công đức cùng người hay thọ trì Kinh này và đọc tụng biên chép giải nói nghĩa Kinh được công đức đồng nhau không khác.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Chư Bồ Tát: Chư thiện nam tử! Trong đại chúng đây, sau khi Phật diệt độ, ai có thể hộ trì vô thượng bồ đề như vậy, và rộng nói nghĩa cho chánh pháp còn ở thế gian được lâu.
Bấy giờ trong Pháp Hội đại chúng có Chư Bồ Tát và Chư Thiên Chư Nhân đều riêng sáu vạn ức đồng thanh bạch Phật: Sau khi Đức Như Lai Thế Tôn diệt độ, chúng tôi có thể hộ trì vô thượng bồ đề như vậy và rộng nói nghĩa cho chánh pháp được còn lâu. Nguyện cầu Đức Như Lai Thế Tôn gia hộ nguyện lực cho.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Nếu ta thiệt đồng Thập Phương Phật
Qua bản sanh tử biển khổ lớn
Công đức vô thượng pháp như vậy
Đáng phải còn lâu không diệt mất
Nếu ta vô lượng đời tu từ
Chân thật vì lợi các chúng sanh
Xem chúng bình đẳng không có hai
Vì vậy chánh pháp được còn lâu
Nếu ta có đủ hai trang nghiêm
Trong vô lượng đời lợi chúng sanh
Đem hai trang nghiêm độ chúng sanh
Vì vậy chánh pháp được còn lâu
Nếu hay phá hoại phiền não kiết
Và cũng trừ diệt các tà kiến
Đầy đủ tất cả các pháp lành
Nên hay giỏi phát nguyện lực này.
Này Chư thiện nam tử! Chẳng riêng gì các đại chúng tất cả Trời Người tất cả Ma Phạm đây, sau khi ta diệt độ đều có thể hộ trì chánh pháp như vậy.
Này Chư thiện nam tử! Hư không có thể làm hình sắc, hình sắc có thể làm hư không, thần thông nguyện lực của Phật không thể làm khác được.
Bấy giờ Tứ Thiên Vương xướng lên rằng: Nếu có người, sau khi Đức Phật diệt độ, có thể thọ trì đọc tụng biên chép Kinh này và giải nói nghĩa Kinh, chúng tôi sẽ thường theo dõi để thủ hộ.
Chư Phạm Thiên nói: Chúng tôi sẽ xả thiền định diệu lạc để thủ hộ người ấy.
Trời Đâu Suất Đà cũng nói: Chúng tôi sẽ thủ hộ các đệ tử thọ trì Kinh này.
Ma Vương Ba Tuần bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người hay thọ trì Kinh này thì tôi ở nơi người ấy trọn không gây ma nghiệp ma sự.
Công Đức Tạng Thiên Tử nói: Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả Chư Phật vô thượng bồ đề đều ở trong Kinh này. Nếu có người hay thọ trì đọc tụng biên chép giải nói, nên biết người này sẽ được bồ đề.
Di Lặc Bồ Tát nói: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi sẽ ở tại Trời Đâu Suất Đà rộng tuyên nói Kinh Điển vô thượng này.
Tôn Giả Đại Ca Diếp nói: Bạch Đức Thế Tôn! Hàng Thanh Văn tôi trí huệ dầu kém cũng cần phải theo sức của mình mà thọ trì đọc tụng tuyên nói nghĩa Kinh này.
Tôn Giả A Nan bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi ở nơi Kinh này chân thật thọ trì chẳng để mất một chữ một câu như từ miệng Đức Phật phát ra không sai khác. Nếu có người phát tâm bồ đề, tôi sẽ vì người ấy mà diễn nói rộng.
Đức Phật phán rằng: Lành thay, lành thay, này Chư thiện nam tử! Các ông đều có thể sau khi ta diệt độ hộ trì chánh pháp chẳng cho dứt mất.
Này Chư thiện nam tử! Nếu có chúng sanh cầu pháp đại thừa chưa được pháp nhẫn mà thọ trì Kinh này, nên biết người này chẳng quá bảy Đức Phật sẽ được thọ ký.
Nếu là người Thanh Văn mà hay thọ trì Kinh này, lúc Di Lặc xuất thế thành Phật, thì người ấy sẽ ở trong Pháp Hội đầu tiên.
Nếu là hàng Duyên Giác mà có người thọ trì Kinh này, sau khi ta diệt độ, thì người ấy sẽ được thành đạo chúng.
Lúc Đức Thế Tôn nói pháp này, vô lượng chúng sanh phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, vô lượng chúng sanh thành tựu pháp nhẫn, vô lượng Thế Giới chấn động sáu cách.
Chư Bồ Tát từ mười phương Thế Giới đến dự Pháp Hội mang hương hoa tốt và các loại kỹ nhạc phan lọng dâng cúng Đức Phật đều xướng lên rằng: Chúng tôi đến trong Thất Bảo đại phường đình này được lợi ích lành rất lớn, nếu chúng tôi mà có chút ít phước đức, nguyện đem phước lực ấy làm cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở lại lâu thế gian, Kinh Điển này lưu bố khắp mười phương Thế Giới không hề hư mất.
Nếu có hàng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di thọ trì Kinh này, thì làm cho họ xa lìa ưu sầu sợ sệt không có các bệnh khổ.
Đà La Ni Tự Tại Vương Đại Bồ Tát nói: Bạch Đức Thế Tôn! Chỗ thuyết pháp hôm nay vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn, tất cả tà pháp chẳng thể lay động được, đây là căn bổn của tất cả pháp lành, là căn bổn của tam thừa, lại là cửa vào của tất cả pháp. Nếu có chúng sanh hỏi pháp này tên gọi là gì và thọ trì thế nào, thì sẽ đáp họ thế nào, xin Đức Thế Tôn chỉ dạy cho.
Đức Phật phán bảo: Này thiện nam tử! Đây gọi là đại bi nói pháp đại bi tên là Như Lai nghiệp thọ ký cho Bồ Tát. Các ông phải thọ trì như vậy. Đức Phật nói Kinh này rồi, tất cả đại chúng Trời Người vui mừng đảnh đới tin thọ phụng hành.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Sáu - Phẩm Bốn - Phẩm Pháp Giới - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Na Tiên Tỳ Kheo - Phẩm Năm - Phẩm Cứu Cánh đích Thực Của Bậc Xuất Gia
Phật Thuyết Kinh Lục độ Tập - Chương Một - Bố Thí độ Vô Cực - Kinh Số hai
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Pháp Hành - Phần Ba - Người Trí
Phật Thuyết Kinh Ma Ha Bát Nhã Sao - Phẩm Mười - Phẩm Thủ Không
Phật Thuyết Kinh La Ma Già - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Nhân Quả Trong đời Quá Khứ Và Hiện Tại - Phần Hai