Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Sáu Mươi - Pháp Hội Nhật Mật Bồ Tát - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ SÁU MƯƠI

PHÁP HỘI NHẬT MẬT BỒ TÁT  

PHẦN MỘT  

Như vậy tôi nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn vẫn ở Đại Bảo Phường Đình giữa hai Cõi Dục và Sắc, cùng vô lượng Đại Bồ Tát câu hội. Đức Thế Tôn vì đại chúng nói pháp hư không mục xuất tức nhập tức cam lộ môn rồi yên lặng mà trụ.

Tất cả đại chúng cũng đều ngồi yên lặng suy nghĩ rằng: Ngày nay Đức Như Lai biết rất rõ tâm tôi, cầu muốn chánh pháp không nhàm, ắt sẽ tuôn mưa pháp Cam Lộ. 

Suy nghĩ vậy rồi, đại chúng đều chắp tay cung kính chăm nhìn Như Lai dường như người bệnh nặng ưa nhìn lương y, như người ở trong chỗ tối ưa nhìn ánh sáng, như người chìm trong nước ưa muốn đến bờ, như người bị nạn khổ ưa được chỗ nương cậy. Trong chúng ấy có một Bồ Tát tên là Liên Hoa Quang Công Đức Đại Phạm.

Bồ Tát này đã ở nơi vô lượng vô biên Chư Phật vun trồng các công đức, thiện căn tăng trưởng, với vô thượng bồ đề tâm không thối chuyển, thành tựu đầy đủ pháp duyên đại từ, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay cung kính quỳ dài bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chỗ tâm sở duyên của tất cả chúng sanh không có biên tế nhanh chóng vô hình.

Tánh nó bổn lai thanh tịnh ở trong các cõi không có gì chướng ngại được. Vì muốn thông đạt biết rõ chân thật nên siêng năng tu tập tứ vô lượng tâm, nhân tu tập nên được tận trí.

Bạch Đức Thế Tôn! Giả sử Tam Giới tánh bổn tịnh cớ chi tu tập tận trí như vậy?

Duy nguyện Đức Thế Tôn vì Chư Bồ Tát mà tuyên dương nói rộng để người thối chuyển được bất thối, để xô dẹp vô lượng phiền não giới, để dứt phá vô biên khối khổ não.

Duy nguyện Như Lai thương xót diễn nói pháp chưa từng được nghe. Chúng sanh nghe pháp chưa từng nghe rồi qua khỏi biển sanh tử xô gãy cây ái. Tại sao, vì trong tất cả phiền não thì ái là căn bản vậy.

Duy nguyện Như Lai thương xót phân biệt diễn nói tội lỗi của ái. Như Lai có thể tịnh chúng sanh sáu căn. Nguyện Đức Như Lai diễn nói pháp tụ thanh tịnh.

Đức Phật nói: Lành thay lành thay, này Liên Hoa Quang! Nếu người có thể hành Lục Ba la mật thì có thể tự biết chỗ sở hành của tâm, người ấy trọn chẳng tưởng niệm Thanh Văn thừa. Dầu còn tu hành vô lượng các hành chưa được cứu cánh nhưng cũng chẳng kinh sợ thối lui sa vào hàng Thanh Văn, hàng Bích Chi Phật.

Nếu có Bồ Tát chẳng thể tu tập Tứ Vô Lượng Tâm, Bồ Tát như vậy nơi đạo bồ đề là có thối thất, đây gọi là chẳng thể thanh tịnh sáu căn, đây gọi là nơi pháp có tham có xan, như vậy gọi là hành nơi tha hành, mà chẳng hành nơi tự hành, đây gọi là chẳng thành tựu được Thất Thánh tài, chẳng thể độ thoát tất cả chúng sanh nơi biển sanh tử. Vì vậy nên Phật gọi hành giả như vậy là Thanh Văn hành, là Bích Chi Phật hành. Lúc ban sơ Phật diễn nói Tứ Thánh Đế hành, sau đó tiếp nối dạy Chư Bồ Tát hành.

Lúc ấy đại chúng đều nghĩ rằng: Đây là Như Lai sắp sửa muốn nói Thanh Văn thừa mà chẳng nói đại thừa chăng?

Phải chăng Đức Như Lai chẳng thích Chúng Bồ Tát như vậy chăng?

Như Lai chẳng muốn đoạn dứt chủng tánh Tam Bảo chăng?

Tại sao Đức Như Lai chẳng nói Diệu Pháp đại thừa để hàng Chư Thiên thế nhân được tín tâm. Để người chưa phát tâm bồ đề thì phát tâm, người đã phát tâm bồ đề thì được tăng trưởng. Để các chúng sanh được tín tâm vậy.

Đức Như Lai nếu nói pháp đại thừa thì vô lượng chúng sanh sẽ được phát khởi tâm bồ đề, do được tu hành pháp đại thừa bất cộng nên thành tựu đầy đủ pháp Đà La Ni.

Biết rõ tâm niệm của đại chúng, Đức Phật nói: Này chư thiện nam tử! Thanh Văn thừa ấy tức là đại thừa, đại thừa ấy tức là Thanh Văn thừa, hai thừa như vậy không có sai khác.

Bấy giờ trong đại chúng Chư Bồ Tát ở bậc Thập Trụ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tôi đã được vô sanh pháp nhẫn. Chúng tôi đã có thể hành mười tám pháp hành bất cộng của Như Lai. Chúng tôi đã hiểu rõ Thanh Văn thừa và đại thừa. Trong đại chúng này còn vô lượng chúng sanh chẳng thể hiểu được Tiểu Thừa và đại thừa.

Đức Phật bảo Chư Bồ Tát ấy: Này các thiện nam tử! Các ông nên tu bất thối thiền định. Chư Bồ Tát ấy liền tu nhập bất thối thiền định. Lúc nhập rồi, hoặc có Bồ Tát thân phóng quang minh như một ngọn đèn một ngọn đuốc, hoặc có thân phóng quang minh như thân Đế Thích, Phạm Vương, hoặc như quang minh nhật nguyệt, hoặc như bốn mặt nhật, hoặc như tám mặt nhật, như ngàn mặt nhật, như ánh sáng cả ức mặt nhật.

Ánh sáng nơi thân Chư Bồ Tát ấy phóng ra chiếu khắp tam thiên đại thiên Thế Giới. Quang minh ấy có thể làm cho vô lượng chúng sanh thân tâm tịch tĩnh.

Kẻ trong ba ác đạo được rời lìa khổ não. Kẻ tà kiến xa lìa ác kiến. Lìa hẳn tham dục, sân hận, ngu si bố uý, các nạn khổ đói khát. Chúng sanh cõi này đồng cúng dường Phật, Pháp, Tăng, tăng trưởng pháp lành.

Lúc bấy giờ Thế Giới Ta Bà này cùng mười phương vô lượng hằng hà sa số Thế Giới, hoặc không hay bất không, hoặc tịnh hay bất tịnh, quang minh ấy đều chiếu khắp.

Chư Bồ Tát trong thập phương Thế Giới, những người có thể tu hành Thánh hạnh bồ đề đạo trong khoảng một niệm đều đến tụ tập trong đại Bảo Phường Đình. Đến rồi đầu mặt lễ Phật ngồi qua một phía.

Đức Phật bảo Chúng Thanh Văn rằng: Này Chư Tỳ Kheo! Các ông có thấy thiện thần túc như vậy chăng?

Thần túc như vậy hay phá hoại tất cả ác ma cảnh giới và các hữu xứ, hay hộ pháp giới, hay hành tất cả Chư Phật cảnh giới, hay phân biệt cảnh giới Thanh Văn và Bích Chi Phật, hơn hẳn tất cả các thần thông.

Này chư Tỳ Kheo! Tất cả Bồ Tát sở dĩ thị hiện đại thần thông là để tăng trưởng các thiện căn cho chúng sanh, để chẳng đoạn tuyệt chủng tánh Tam Bảo, để kẻ chưa tin thì được tín tâm, kẻ đã tin thì được tăng trưởng, để cho chúng sanh được thọ an lạc, để trưởng dưỡng pháp đại thừa, để thân được thường, lạc, ngã, tịnh. Vì các nhân duyên như vậy nên Bồ Tát vì chúng sanh mà thị hiện thần thông như vậy.

Này chư Tỳ Kheo! Tuỳ chỗ nào mà Chư Bồ Tát như vậy đi đến thì trong ấy Phật Pháp liền được tăng trưởng, hoặc hiện tại hay vị lai, Phật Pháp còn ở lâu chẳng diệt mất. Nơi đó các chúng sanh xây dựng Tháp Miếu, cúng dường Chúng Tăng, cầu thân vô tận, thân không khổ não.

Các sự cúng dường ấy là tạo sanh thân và pháp thân. Sanh thân cúng dường là pháp tượng. pháp thân cúng dường là thơ tả đọc tụng mười hai Bộ Kinh. Cúng dường như vậy hơn đem Thất Bảo, hương hoa, kỹ nhạc, phan lọng, anh lạc cúng dường.

Này Chư Tỳ Kheo! Lúc ấy tâm ta cũng nhận thọ đó. Do cúng dường như vậy, các chúng sanh ấy sẽ được đầy đủ quả báo tam thừa tâm chẳng thối chuyển.

Nếu có chúng sanh vì ta mà tạo nhà cửa, chỗ kinh hành ta liền thọ dụng, hoặc là rừng cây, vườn hoa, giảng đường, Tinh Xá dâng cúng dường ta. Các hàng đệ tử có những ẩm thực, ngoạ cụ, thuốc men, phòng nhà ta cũng thọ dụng.

Nếu các Pháp Sư thăng tòa cao thuyết pháp, lúc ấy ta cũng chí tâm lắng nghe. Nếu cúng thí cho Pháp Sư ấy những y phục, ẩm thực, ngoạ cụ, thuốc men, phòng nhà, vườn rừng, xe cộ, ruộng nương, nô tỳ, ta cũng thọ đó. Đây gọi là pháp cúng dường.

Người này như vậy có thể tịnh thân tâm, trang nghiêm thân tâm, cũng có thể trang nghiêm vô thượng bồ đề, có thể được an lạc vi diệu, hay bố thí tất cả vật, cho tất cả người, trong tất cả thời gian, có thể thọ tất cả quả báo, thọ tất cả người, thọ tất cả thời.

Đây gọi là thành tựu phước bố thí. Người này trọn chẳng đến ba ác đạo được pháp chẳng đoạ lạc, như ý sở cầu, chẳng thối chuyển tam thừa.

Người này thường được có đủ hai thứ, đó là của cải và chánh pháp. Vì vậy nên những vật mong cầu đều tuỳ ý liền được. Thường được thập phương Chư Phật hộ niệm. Hay phá tất cả cảnh giới ma.

Nếu có người kính tin đem vật sở hữu của mình phụng dâng cho Pháp Sư, nếu người phá giới mà thọ vật phụng dâng ấy, nhẫn đến một là, một bông, một trái, người ngu si này do cớ phá giới thọ cúng dường ấy nên mắc quả báo bất thiện, hiện tại liền bị bốn quả ác lớn, đó là tiếng ác đồn xa, thầy bạn thân thiện đều xa lìa.

Mắc phải bệnh nặng khổ ác mà chết, đó là lúc sắp chết ăn uống không vô thấy cảnh ác dữ miệng không nói được nằm ỉa đái dơ dáy và sau khi chết sáu vật sở hữu cùng những của cải khác chẳng đến trong tăng hoặc bị lửa cháy hoặc trộm cướp lấy.

Đời sau còn bị bốn ác báo, đó là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và nếu được làm người thì thân không có tay chân. Lúc thọ thân quỷ thì trong vô lượng năm chẳng thấy nước uống cũng chẳng nghe danh từ nước uống, lúc thọ thân súc sanh thì thường ăn bùn đất, nếu trở lại làm người thì ở xứ không có Tam Bảo.

Đời ngũ trược đui mù không mắt sáng, thường bị bệnh nặng ăn món dơ hôi. Bỏ thân người lại đoạ vào địa ngục. Tại sao phải ác báo lớn như vậy vì kẻ phá giới mà thọ vật đáng là của Pháp Sư. Ác Tỳ Kheo này có thể hoại diệt có thể làm dứt Tam Bảo nên phải bị ác báo như vậy.

Trong chúng có một Đại Đức Tỳ Kheo tên là Già Gia Ca Diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Thân người như vậy đáng gọi là người chăng?

Nay tôi suy nghĩ thì chẳng phải là người vậy.

Tai sao?

Vì người ấy lòng rất vì lợi dưỡng mà thọ cấm giới nên chẳng phải là người vậy.

Đức Phật nói: Lành thay lành thay, này Ca Diếp! Thọ thọ các thân địa ngục v.v… trọn chẳng thọ lấy các vật như vậy.

Này Ca Diếp! Thân người khó được nay đã được, Phật Pháp khó gặp nay đã gặp, cấm giới khó thọ nay đã thọ, như vậy mà chẳng xu hướng thánh hạnh phạm hạnh, đây gọi là hư mất sự đại lợi ích.

Ác Tỳ Kheo ấy vì tâm tham ăn, tham tài lợi mà thọ cấm giới, chớ chẳng phải tâm vì chánh pháp. Người ngu si ấy cậy sức đa văn và thế lực Quốc Vương hay Đại Thần mà muốn thọ các vật tịnh thí ấy bèn sẽ bị ác quả lớn.

Vua Tần Bà Sa La bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Người xuất gia thọ vật như vậy mắc quả như vậy.

Còn người tại gia thọ tội ấy như thế nào?

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Nay Vua chẳng nên hỏi sự như vậy.

Vua nói: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi tu Thánh hạnh trọn chẳng thọ lấy các vật như vậy. Tôi vì các Vua ác đời vị lai mà hỏi sự ấy.

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Nếu Phật tuyên nói ác nghiệp quả của các ác Vương đời vị lai, nếu có kẻ chẳng tin lời Phật sẽ bị ác quả báo lớn. Vì vậy nên Phật thôi không nói đến.

Vua nói: Bạch Đức Thế Tôn! Duy nguyện Như Lai vì đời vị lai các Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, người có lòng kính tin phụng trì Phật Pháp thủ Hộ Pháp Sư và tài vật mà phân biệt nói đủ cả cho.

Đức Phật nói: Lành thay lành thay, này Đại Vương! Nếu các ác Vương đời vị lai mà xâm đoạt các vật của Pháp Sư như vậy, nên biết ác Vương ấy hiện đời mắc hai mười điều ác:

Một là Chư Thiên chẳng vệ hộ.

Hai là tiếng ác đồn xa.

Ba là thân hữu xa lìa.

Bốn là oán địch tăng trưởng.

Năm là tài vật tổn hao.

Sáu là tâm nhiều tán loạn.

Bảy là thân chẳng đầy đủ.

Tám là ngủ chẳng yên.

Chín là thường lo đói kém.

Mười là món uống ăn biến thành ác độc.

Mười một là nhân dân chẳng ái kính.

Mười hai là lân quốc hằng xâm lăng.

Mười ba là quyến thuộc chẳng chịu nghe lời.

Mười bốn là quốc sự bí mật bị mưu thần hiển lộ.

Mười lăm là tài vật bị thuỷ hoả xâm đoạt.

Mười sáu là thường có bệnh nặng.

Mười bảy là thuốc men không nghiệm.

Mười tám là chẳng chữa lành được.

Mười chín là uống nước không xuống.

Hai mười là thường nhớ tưởng bất tịnh.

Xả thân rồi liền lại sẽ sanh vô gián ngục chịu khổ một kiếp.

Quá một kiếp rồi thọ thân ngạ quỷ ở đồng hoang vắng, chẳng nghe tên nước uống, món ăn, thân thể tàn tật không đủ các căn thọ khổ não nhiều trong vô lượng kiếp.

Thọ quả ngạ quỷ rồi sẽ sanh làm thân thú lớn trong đại hải, thân lớn nhiều do tuần như khối thịt lớn, thường bị các chúng sanh nút cắn rất là đau khổ.

Nếu được thân người thì sanh nhằm đời ngũ trược ác không có Phật xuất thế, tàn tật không đủ tai mắt. Các ác vương vị lai bị những ác báo lớn như vậy.

Vua nói: Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi thà thọ thân địa ngục chớ trọn chẳng thọ thân ác vương như vậy.

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Nay Phật đem các tài vật ấy của Pháp Sư giao phó cho các Vua, những Quốc Vương  có tín tâm. Tại sao, vì Pháp Sư là tạng pháp thân của Như Lai vậy.

Vua nói: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có hàng Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà có thể hộ trì pháp tài như vậy, người này sẽ được những công đức gì?

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Người như vậy hơn tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác.

Này Đại Vương! Ví như có kẻ có khả năng giết chết tất cả thập phương chúng sanh, đoạt cả mắt, chặt cả tay chân.

Này Đại Vương! Kẻ ấy mắc tội báo nhiều ít?

Vua Tần Bà Sa La yên lặng không đáp.

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Cớ sao không đáp?

Vua nói: Bạch Đức Thế Tôn! Kẻ ấy mắc nghiệp quả ác chẳng thể cân lường chẳng thể tính đếm.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu gây ác hại như vậy cho một người tội còn khó kể được huống là với tất cả người.

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Phật tại thế hoặc sau khi diệt độ, nếu có ác vương Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà mà xâm đoạt những vật như vậy của Pháp Sư, mắc tội báo chia làm trăm phần, kẻ ác trên tội báo chẳng bằng một phần trăm ấy.

Vua nói: Bạch Đức Thế Tôn! Đúng chánh pháp mà trị nước vua như vậy khó có được. Nếu chẳng phóng dật thì có thể Hộ Pháp, nếu phóng dật thì chẳng thể hộ.

Bạch Đức Thế Tôn! Người hay hộ chánh pháp được công đức gì?

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Ví như có người hay ban cho tất cả chúng sanh như trên sự sống còn và mắt sáng cùng tay chân, người này được phước chừng có nhiều chăng?

Vua nói: Bạch Đức Thế Tôn! Có thể ban cho một người sự sống mắt sáng và tay chân, phước còn nhiều huống là ban cho tất cả ngần ấy người.

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Nếu người hộ pháp được công đức chia làm trăm phần, người ban thí trên được phước chẳng bằng một phần trăm ấy.

Vua nói: Bạch Đức Thế Tôn! 

Nếu có kẻ thọ lấy tài vật của một Pháp Sư thì có mắc tội chăng?

Nếu người ủng hộ một Pháp Sư lại có được phước chăng?

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Nếu có kẻ thọ lấy tài vật của một Pháp Sư cùng của năm Pháp Sư mắc tội bằng nhau. Nếu có người hộ trì tài vật của một Pháp Sư cùng của năm Pháp Sư được phước như nhau không sai khác.

Này Đại Vương! Nếu một Chùa Miếu, hoặc một thôn lạc, một rừng cây trụ năm Pháp Sư. Nếu đánh kiền chuỳ hội tứ phương Tăng. Khách Tăng tập hội rồi theo thứ đệ cung cấp phòng nhà, món uống ăn, ngoạ cụ, y dược không tâm lẫn tiếc.

Đầu hôm cuối đêm đọc tụng giảng luận nhàm sợ sanh tử chuyên ưa Niết Bàn, chẳng tự tán thán thân mình, chẳng nói chỗ dở kẻ khác, thiểu dục tri túc, thường thích tán thánthiểu dục tri túc, siêng tu tinh tiến chí thích tịch tĩnh, tu tập niệm định thương mến chúng sanh.

Này Đại Vương! Đây gọi là Chúng Tăng như pháp mà trụ hộ giới tinh tiến trì mật tạng của Phật, đọc tụng thơ tả phân biệt Thánh Giáo. Đây gọi là Chúng Tăng lân mẫn chúng sanh lợi ích chúng sanh, hay thọ trì Như Lai mười hai Bộ Kinh, cũng hay thọ trì cấm giới tịch tĩnh, đầy đủ tàm quý Hiền Thánh công đức.

Này Đại Vương! Đây gọi là Chúng Tăng biển đại công đức là thầy Nhân Thiên hay đại lợi ích vô lượng chúng sanh, hay dứt chúng sanh vô lượng khổ não, hay ban cho tất cả chúng sanh giải thoát. Năm Tỳ Kheo ấy còn gọi là Chúng Tăng hà huống gì đông vô lượng.

Này Đại Vương! Nếu vô lượng Tăng đều phá cấm giới, chỉ được năm Tỳ Kheo thanh tịnh như pháp mà trụ, người bố thí được phước vô lượng, chẳng thể cân lường chẳng thể tính đếm. Tại sao, do có người hộ trì Phật Pháp thương xót tất cả chúng sanh vậy, vì tâm bình đẳng không có hai tướng vậy.

Vua nói: Bạch Đức Thế Tôn! Tỳ Kheo phá giới có được ở trong đại chúng thọ tín thí chăng?

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Như trong nước Vua có một người tội chưa kịp đày đuổi, Vua cấp thí cho hàng Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà người tội ấy có được thọ lạc chăng?

Vua nói: Bạch Đức Thế Tôn! Không được thọ lạc.

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Cũng vậy, phá giới Tỳ Kheo dầu ở trong chúng thọ lấy tín thí chẳng được an lạc. Tại sao, vì phá cấm giới, vì chẳng như pháp vậy.

Này Đại Vương!

Người như vậy tất cả mười phương Chư Phật chẳng hộ niệm, dầu gọi là Tỳ Kheo mà chẳng ở Tăng số. Tại sao, vì nhập vào ma giới vậy. Người trì giới là đệ tử Phật. Người phá giới là đệ tử ma.

Người trì giới là xuất thế đạo. Người phá giới là nhập thế đạo. Phật đều chẳng cho kẻ phá giới thọ của tín thí chừng bằng hột đình lịch, tại sao, vì kẻ ấy xa lìa Như Lai pháp vậy.

Vua nói: Bạch Đức Thế Tôn! Người phá giới có những tướng gì có biết được chăng?

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Người có trí thì biết được.

Này Đại Vương! Nếu có người chẳng có thể cung kính Tam Bảo chẳng sanh tín tâm không có tàm quý, với Sư Trưởng Hoà Thượng kỳ lão trưởng túc đồng sư đồng học chẳng sanh cung kính, xô ngã tràng Thánh, chẳng tu phạm hạnh, tăng trưởng xan tham, thích ở nhà tục, chẳng có thể thanh tịnh được bốn nghiệp ở nơi miệng, thường tu tâm thực xa lìa tâm pháp, thích nói sự thế gian vô ích, đây gọi là Tỳ Kheo tướng ban sơ phá giới.

Nếu người này thọ chứa tôi, tớ, voi, ngựa, bò, dê, lạc đà, lừa, gà, heo nhẫn đến tám thứ vật bất tịnh, đây gọi là đầy đủ phá cấm giới vậy.

Đây gọi là cặn bã trong Sa Môn, là vạy vò trong Sa Môn, là ảo huyễn trong Sa Môn, là giặc trong Sa Môn, là say sưa trong Sa Môn, là Chiên Đà La trong Sa Môn.

Tỳ Kheo như vậy chẳng nên cộng trụ, chẳng cộng hoà hiệp, chẳng nên chung làm chín mươi chín Yết Ma. Đây gọi hư mất sự nghiệp Tỳ Kheo đoạ vào chỗ nghèo cùng.

Này Đại Vương! Thà cùng chung ở với hàng Chiên Đà La mà chẳng ở chung với ác Tỳ Kheo như vậy. Tại sao, vì Tỳ Kheo như vậy thiêu diệt thiện căn, dứt Tam Thế tâm thiện từ mẫn. Ác Tỳ Kheo ấy chính là cầu tiêu thêm lớn pháp sanh tử, tức là chủng tử ác nhân Thiên, tại sao, vì người này khi dối nhân Thiên khác.

Tỳ Kheo này làm tắt đèn giải thoát xô ngã tràng pháp làm khô biển pháp, hay phá người Thuyết Pháp, hay phỉnh gạt thí chủ, phá hoà hiệp Tăng.

Nếu có ác Vương hoặc hàng Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà ủng hộ các ác Tỳ Kheo như vậy, thì là thêm lớn nghiệp ác đạo, là gieo trồng các giống ác nhân Thiên.

Này Đại Vương! Nếu ác Tỳ Kheo quở mắng Tỳ Kheo như pháp trụ, thì các Vua quan kính tin Tam Bảo phải nên phạt đuổi. Nếu phạt đuổi kẻ ấy thì được nhiều phước. Nếu là vua không có tín tâm thì như pháp Tỳ Kheo chẳng nên cùng ác Tỳ Kheo cộng trụ.

Tỳ Kheo có trí nên trước qua chỗ Vua mà thưa rằng: Nay Vua có thể hộ trì Phật Pháp chăng?

Nếu Vua đáp là hay hộ trì thì Tỳ Kheo có trí nên nín lặng.

Nếu Vua ấy có tâm tham bảo rằng: Này Đại Đức! Trong Chùa Miếu ấy có đông Chúng Tăng, sao ta lại vì năm Tỳ Kheo mà xua đuổi nhiều người. Tỳ Kheo có trí nghe lời ấy thì chẳng nên đến nữa, bèn nên bỏ đi đến chỗ tịch tĩnh.

Vua nói: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có ác Vương tuỳ thuận theo lời ác Tỳ Kheo như vậy thì cả Đại Địa này làm sao chở được Vua ấy, từ đây quá hằng hà sa số kiếp sau trọn không còn được thọ thân người. Vô lượng chúng sanh được giải thoát rồi, ác Vương ấy vẫn còn chưa khỏi được nghiệp ba ác đạo.

Đức Phật nói: Này Đại Vương! Nếu đời vị lai có các vua có lòng kính tin Tam Bảo, hoặc Sát Lợi, hoặc Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà có thể thủ Hộ Pháp Sư tạo lập Tháp tượng cúng dường Chúng Tăng các món cần dùng, vì hộ chánh pháp mà trị ác Tỳ Kheo, thà bỏ thân mạng để hộ một Tỳ Kheo như pháp, chớ chẳng hộ vô lượng ác Tỳ Kheo, người Hộ Pháp này xả thân sẽ sanh thanh tịnh Phật Độ, thường gặp Tam Bảo, chẳng lâu sẽ được vô thượng bồ đề.

Này Đại Vương! Nay Phật chẳng cho một người thọ chứa tám vật bất tịnh, chỉ cho đại chúng được thọ chứa và dùng.

Này Đại Vương! Nếu có người có thể hộ trì chánh pháp, nên biết người này là đại Đàn Việt của thập phương Chư Phật Thế Tôn.

Này Đại Vương! Tăng vật khó chấp chưởng.

Nay Phật chỉ cho hai hạng người chưởng hộ: Một là A La Hán Tỳ Kheo đủ bát giải thoát, hai là người Tu Đà Hoàn. Trừ hai hạng người này không còn có ai chưởng hộ được Tăng vật vậy. Lúc Đức Thế Tôn vì Cua Tần Bà Sa La nói pháp ấy rồi, phương Đông có Quốc Độ tên là Vô lượng, có Phật hiệu là Ngũ Công Đức thường nói Diệu Pháp giáo hoá chúng sanh.

Cõi ấy có một Bồ Tát tên là Nhật Mật chí tâm lắng nghe pháp ngước nhìn hư không thấy có vô lượng vô biên Bồ Tát từ phương Đông đến đi thẳng qua Tây Phương, liền bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi thấy phương Đông vô lượng Bồ Tát đi qua phương Tây.

Có nhân duyên gì mà họ bỏ nước tịnh diệu đi qua uế độ?

Đức Phật Ngũ Công Đức nói: Này Nhật Mật! Phương Tây quá đây vô lượng vô biên hằng hà sa số Thế Giới có Thế Giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, chúng sanh tệ ác đầy trong nước ấy.

Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở trong Thế Giới ấy nói pháp Tam Thừa, vì muốn tăng trưởng Phật chánh pháp, vì chẳng dứt chủng tánh Tam Bảo, vì phá ma giới dựng pháp Tràng, vì chánh pháp còn ở lâu mà chẳng diệt tận.

Thế Giới ấy có vô lượng Phật, vô lượng Bồ Tát tuyên nói bảo kế Đà La Ni pháp. Đã nói pháp ấy rồi, Thích Ca Như Lai lại nói pháp Tam Thừa tứ vô ngại trí, bốn thứ phạm hạnh và bốn nhiếp pháp.

Vô lượng chúng sanh lúc nghe pháp ấy lòng không mỏi nhàm vì họ thích vị Cam Lộ vậy. Do bổn nguyện lực của Thích Ca Như Lai nên vô lượng Chư Phật, vô lượng Chư Bồ Tát đều tập hội cõi ấy.

Lúc Phật Thích Ca nói pháp chúng Bồ Tát nhập thiền định. Đã nhập định rồi thân phóng quang minh sáng như một ngọn đèn đuốc nhẫn đến sáng như ánh sáng cả ức mặt nhật.

Này Nhật Mật! Nếu muốn hộ pháp thì nên khởi định đi đến Thế Giới Ta Bà.

Này Nhật Mật! Chúng sanh cõi Ta Bà phiền não bền chặt, hệ phược sâu nặng, thân hình xấu xí hôi dơ, họ nhiều kiêu mạn ác khẩu lưỡng thiệt xa lìa thiệt ngữ, họ thiệt ngu si mà hiện tướng trí huệ, nhiều lòng xan tham mà hiện tướng xả ly.

Có nhiều siểm khúc mà hiện tướng chất trực, tâm nhiều trược loạn mà hiện tướng thanh tịnh, có nhiều tật đố mà hiện tướng nhu nhuyến, thích làm cho người ly biệt mà hiện tướng hoà hiệp, lòng nhiều tà kiến mà hiện tướng chánh kiến. Chúng sanh cõi ấy theo lời phụ nữ, vì nghe theo lời phụ nữ nên đoạn tuyệt thiện căn tăng trưởng ba ác đạo.

Này Nhật Mật! Nay ông vả có thể vì ta mà làm sứ giả chăng?

Ta muốn giữ dục khiến Như Lai ấy khéo nói pháp yếu. Nói dục ấy đó là chân Đà La Ni. Chân Đà La Ni này thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, hay dứt được dục tham, sắc tham, vô sắc tham, kiêu mạn, ngã mạn, tất cả thủ tham, tất cả ngũ cái, tất cả ngã kiến, đoạn kiến, giới thủ, kiến thủ, tà kiến, thường kiến, chúng sanh kiến, sĩ phu kiến, tác giả kiến, thọ giả kiến, nhân kiến, thiên kiến, sắc, thanh, hương, vị, xúc kiến, tứ đại kiến, xuất kiến, sanh kiến, trụ kiến, diệt kiến.

Đây gọi là tuỳ như thuận nhẫn. Đà La Ni này chân thật biết sắc đến thức, nhãn đến ý, ấm nhập giới, giải thoát Pháp Giới, vô thượng diệu lạc.

Này Nhật Mật! Chúng sanh Ta Bà Thế Giới kia như kẻ sanh lung, sanh manh, sanh á, tham dục say cuồng, vì vậy nên ta giữ dục pháp tuỳ như chân thật Đà La Ni, đây là tạng tất cả pháp, là pháp môn bất khả tư nghị có thể phá hoại tất cả bạn đảng ma và cảnh giới ma.

Này Nhật Mật! Đà La Ni này cũng hay điều phục tất cả ma chúng, hay khủng bố tất cả ác độc long, hay khiến ác quỷ sanh ý tưởng tri túc, hay cảm hoá tất cả A Tu La chúng, hay điều tất cả Kim Sí Điểu, hay bố tất cả Khẩn Na La, hay làm cho Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà sanh lòng kính tin, hay phá tất cả kẻ tham thân nữ, khiến người đa văn sanh lòng ưa thích, người tập thiền định tâm được tịch tĩnh, hay khéo chữa lành tất cả ác trọng bệnh. 

Hay trừ tất cả ác tướng trong Quốc Độ như là ác tặc, ác điểu, ác thú, ác phong, ác vũ, ác hàn, ác nhiệt.

Này Nhật Mật! Nếu có người hay tụng Đà La Ni này thì có thể được thấy vô lượng Chư Phật.

Này Nhật Mật! Ông thọ Trì Chú này đến Thế Giới Ta Bà kia hướng hàng tứ chúng mà tuyên nói đầy đủ đó.

Đức Ngũ Công Đức Như Lai liền nói Đà La Ni rằng:

Bà di bà xà ba lợi bà linh, bà hê bà ha ba lợi bà linh, ti lợi si tỉ ti lợi si ba lợi bà linh, a tỳ a bà ba lợi bà linh, để để để xà ba lợi bà linh, ma linh ma la ba lợi bà linh, khê kỳ khước già ba lợi bà linh, a lộ xí a lộ ca ba lợi bà linh, đá mế đá ma ba lợi bà linh, tư linh tư la ba lợi bà linh, già mế già ma ba lợi bà linh, a bộ bà a bộ bà ba lợi bà linh, la ma, la ma, la ma, la mế, la ma, lã la, lã la, ma tỉ toá nhã na, phục đa kỳ hê phục đa kỳ lực ma ba lợi bà linh, giá táp kỳ lực hê giá táp kỳ lực ma ba lợi bà linh, thâu lộ đa kỳ lực hê thâu lộ đa kỳ lực ma ba lợi bà linh, kỳ lãng na kỳ lực hê kỳ lãng na kỳ lãng ma ba lợi bà linh, thời chúc kỳ lực hê thời chúc kỳ lãng ma ba lợi bà linh, ca xà kỳ lực hê ca xà kỳ lực ma ba lợi bà linh, ma na kỳ lực hê ma na kỳ lực ma ba lợi bà linh, bát thi kỳ lực he bát đà kỳ lực ma ba lợi bà linh, tỳ đà na kỳ lực hê tỳ đa na kỳ lực ma ba lợi bà linh, thất nang kỳ lực hê thất nang kỳ lực ma ba lợi bà linh, ưu ba đà kỳ lực hê ưu ba đà kỳ lực ma ba lợi bà linh, bà bà kỳ lực hê bà bà kỳ lực ma ba lợi bà linh, xa đề kỳ lực hê xà đề kỳ lực ma ba lợi bà linh, xà lã ma na la kỳ lực hê xà lã ma na la kỳ lực ma ba lợi bà linh, đậu khê tát đa ba kỳ lực hê đậu khê tát đa ba kỳ lực ma ba lợi bà linh, a lã ba lã chuỳ xà kỳ lực hê a lã ba lã chuỳ xà kỳ lực ma ba lợi bà linh, a bạt đa, tỉ bạt la tả, a ba lã mâu ba ma tát tả tỉ già, tỉ ni bạt đa, a đà lợi dã lại mế, tán tỉ già phiến đề, sá ha.

Nhật Mật Đại Bồ Tát bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi có thể đến nơi Ta Bà Thế Giới kia tuyên nói chú ấy, chỉ ở nơi cõi ấy sanh lòng e sợ. Tại sao, vì vừa rồi Như Lai vì tôi mà tuyên nói chúng sanh cõi Ta Bà có nhiều tệ ác dường như kẻ sanh lung, sanh manh, sanh á tuỳ theo ý nữ nhân.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có kẻ thuận theo ý nữ nhân thì nên biết người ấy dứt hẳn thiện căn.

Đức Ngũ Công Đức Như Lai nói: Này Nhật Mật! Nay ông chẳng vì hiện lợi hậu lợi mà nên vì lợi ích tất cả chúng sanh, chỉ qua đó tuyên nói Thần Chú chớ có lo sợ.

Này Nhật Mật! Ông chẳng phải là Duy Ma Cật ở bên kia ư! Cớ chi ông lại lo sợ?

Nhật Mật Bồ Tát nín lặng không đáp.

Đức Phật nói: Này Nhật Mật! Sao ông yên lặng vậy?

Nhật Mật Bồ Tát nói: Bạch Đức Thế Tôn! Duy Ma Cật kia tức là thân tôi. Tôi ở cõi kia hiện thân hình bạch y vì các chúng sanh mà tuyên nói pháp yếu, hoặc có lúc tôi hiện thân Bà La Môn, hoặc Sát Lợi, thân Tỳ Xá, thân Thủ Đà.

Hoặc thân Tự Tại Thiên, thân Thiên Đế Thích, thân Phạm Thiên, hoặc hiện thân Long Vương, A Tu La Vương, Ca Lâu La Vương, Khẩn Na La Vương, hoặc hiện thân Thanh Văn, thân Bích Chi Phật, hoặc hiện thân trưởng giả, thân nữ nhân, thân đồng nam, thân đồng nữ, thân súc sanh, thân ngạ quỷ, thân địa ngục, tôi hiện các thứ thân hình như vậy để điều phục chúng sanh.

Lúc ấy trong chúng có tám vạn Bồ Tát đồng một tam muội xuất nhập cùng đồng, còn có vô lượng vô số Bồ Tát tâm điệu động chí tâm hệ niệm muốn được gần lễ lạy Thích Ca Mâu Ni Phật và đại chúng, cũng muốn nghe học Kinh Điển đại thừa vi diệu. Đại chúng như vậy đều đồng lòng muốn qua Ta Bà Thế Giới.

Nhật Mật Bồ Tát nghĩ rằng: Ta vì đại chúng này muốn nói đại sự. Tại sao, vì đại chúng này tâm họ chưa định, nếu qua cõi kia hoặc có thể họ sanh tâm điên đảo gần kề ác tri thức.

Đức Ngũ Công Đức Phật bảo Nhật Mật Bồ Tát rằng: Này Nhật Mật! Nay ông chớ nên sanh lòng e sợ, nay ta sẽ ban cho đại chúng Bồ Tát bất cộng pháp hành, vô tưởng hành, điều phục hành, giải thoát hành, phân biệt sanh tử hành, bất đoạn Tam Bảo hành, đại từ đại bi hành, nhất thiết trí giải thoát hành, phá hoại tứ ma ác tà luận hành, tận trí vô sanh trí hành, tất cánh nhập Niết Bàn hành.

Đây gọi là Liên Hoa Đà La Ni môn. Đà La Ni này làm cho Bồ Tát chẳng thích ưa tam giới mà chứng vô tướng giải thoát môn và nhập vô hành giải thoát môn.

Này Nhật Mật! Nếu người tin thì nên chí tâm lắng nghe Liên Hoa Đà La Ni này, người ấy hay nhẹ mỏng tất cả tham dục tất cả phiền não xả thân bảy đời thường được sanh Cõi Trời nhớ biết túc mạng, dầu ở Dục Giới chẳng bị dục làm ô nhiễm, thường thích xuất gia được nhân Thiên vui cúng dường.

Nếu có người hay bảy ngày chí tâm rồi lắng nghe Đà La Ni này thì trọn chẳng đọa lạc trong ba ác đạo. Nếu hàng nhân Thiên lắng nghe Đà La Ni này thì xa lìa tham dục mà tu tập thiền định.

Nếu có người hay đối với Quốc Vương, Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà mà tuyên nói Liên Hoa Đà La Ni này, người nghe liền phát tâm xuất gia.

Nếu nữ nhân chí tâm nghe Đà La Ni này thọ trì đọc tụng liền chuyển thân nữ nhân được thân nam tử nơi vô thượng bồ đề Tâm không thối chuyển nhẫn đến được Đại Bát Niết Bàn, trọn chẳng còn thọ thân nữ nhân trừ tự phát nguyện.

Này Nhật Mật! Nếu có người hay đem Chú này mà Chú các cây cỏ thuốc, rồi đem sơn trét trống loa, lúc đánh lúc thổi, người nghe tiếng tất cả tà kiến cổ độc các bệnh tệ ác đều không làm hại được. Liên Hoa Đà La Ni này thành tựu vô lượng phước đức.

Liền nói chú rằng:

Tư đà ma đề, tỉ lộ ca ma đề, y lê sí để lợi tỉ, lưu giá tu lưu giá, phật đề tỉ phật đề, ma ha phật đề, ôn ma đề ôn ma đa ba la đề tỉ đa ninh, la già bà la ca đà ba lợi đề tỉ đà ninh, tần đậu tần đậu ma đề, chí tra chí tra ba la đề tỉ đà ninh, át sí chiến đà đậu, ha ha chí trí, ha đa ni mế, ha đa ca ma tỉ kỳ, ha đa phú na bà bà la xà, ha đa tam mộ để, ha đa tỉ ma đa phật đề, ha đa xà kỳ ly, ha đa tỉ tam ma kỳ ly, ha đa tam mâu đà xà tỳ, ha đa tỉ ma đa lã kỳ, ha đa hi hê, ha đa giá tri, ha đa đạt ba la xà, ha đa bà hưu la xà, ha đa bà xà ma đề, ha đa lưu già ma đề, ha đa ô già lại mế, ha đa đà ma mật đề, ha đa tát bà ưu ba đà na, nhã nhã nhã, tỉ xà nhã nhã, tỉ bà xà nhã nhã, bà lã mạt lực già nhã nhã, y sa an đâu lã già đậu xí, sá ha.

Này Nhật Mật! Liên Hoa Đà La Ni ấy hay dứt tứ lưu ông nên chí tâm thọ trì Đà La Ni ấy mà đến cõi Ta Bà. Tại sao, vì Thế Giới kia có trăm ức ma chúng hay phá hoại các thiện pháp của chúng sanh, các ông nếu tụng Đà La Ni ấy thì chẳng bị ác ma kia xâm phạm.

Nhật Mật Bồ Tát cùng vô lượng Chư Bồ Tát và vô số nhân Thiên bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Như Lai trí huệ bất khả tư nghị, từ trước chúng tôi chưa từng nghe Đà La Ni ấy. Lúc ấy tám vạn bốn ngàn nữ nhân Thế Giới vô lượng nghe Liên Hoa Đà La Ni rồi liền chuyển thân nữ thành thân nam.

Phật Ngũ Công Đức lấy tràng hoa Chiêm Bà bảo Nhật Mật Bồ Tát rằng: Này Nhật Mật! Ông cầm tràng hoa chiêm bặc này và Đà La Ni qua Thế Giới Ta Bà cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni.

Trong đại hội có tám vạn Bồ Tát đồng bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng muốn đến Ta Bà Thế Giới.

Đức Ngũ Công Đức Phật nói: Lành thay lành thay, các ông nếu đi thì nên hiện thân Phạm Thiên. Đại Chúng Bồ Tát ấy liền hoá làm thân Phạm Thiên qua Ta Bà Thế Giới đến chỗ Phật Thích Ca Mâu Ni đầu mặt lễ lạy hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía, bấy giờ cả cõi Ta Bà liền có trận mưa hoa chiêm bà khắp mọi nơi. Đức Phật vẫn vì Vua Tần Bà Sa La tuyên nói pháp hành.

Nam phương quá số Thế Giới bằng số cát đầy trong một thành cao rộng đều một do tuần, có một Thế Giới tên là Ca Sa Tràng đủ ngũ trược, có Phật hiệu là Sơn Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện tại vì chúng sanh tuyên nói pháp yếu.

Có một Bồ Tát hiệu là Hương Tượng Vương ngước nhìn hư không thấy có vô lượng Bồ Tát từ phương Nam đến đi thẳng qua phương Bắc liền bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Có nhân duyên gì mà vô lượng Đại Bồ Tát từ phương Nam đi thẳng qua phương Bắc?

Đức Phật Sơn Vương Như Lai nói: Này Hương Tượng Vương! Về phương Bắc quá số Thế Giới bằng số cát đầy trong một thành cao rộng đều một do tuần, có Thế Giới tên Ta Bà, Phật Thích Ca Mâu Ni ở đó tuyên nói Kinh Đại Tập vi diệu, phân biệt Tam Thừa để chẳng dứt chủng tánh Tam Bảo, chẳng dứt pháp hành phá ma giới dựng pháp Tràng.

Tất cả mười phương Chư Phật Thế Tôn ở nơi cõi ấy tuyên nói giải bày Bảo tràng Đà La Ni, nói Chư Phật trở về bổn xứ. Thích Ca Như Lai vì Chư Bồ Tát và Chúng Thanh Văn tuyên nói pháp yếu.

Các ông có muốn qua Ta Bà Thế Giới nghe học pháp chăng?

Nay ta cũng muốn giữ dục cho Đức Phật ấy, đó là đoạn nghiệp Đà La Ni tuỳ thuận không môn dứt tham sắc kiêu mạn, mạn mạn, ngã mạn nhẫn đến để được tận trí vô sanh trí vậy.

Liền nói Chú rằng:

Đậu mạc đề, đậu mạc đề, áo xoa đậu mạc đề, ba la bà sa đậu mạc đề, tát bà a ca xá đậu ma, a tỳ khê già, tỳ mế đa khê già, a tỳ xoa khê già, a bà mạc a khước già, a na nhã khước già, tỳ dã phật đề khước già, bà lộ giá khước già, thức xí khước già, tỉ đề di lã khước già ô số ma khước già, ô la khước già, a xoa khước già, xà bà ma na khước già, thấp ba ba khước già, xà bà tỉ nhã na khước già, giá táp đà đâu khước già, xà bà ma ná tỉ nhã na đà đâu khước già, ti lợi si tỉ đà đâu khước già, xà bà tỉ nhã na đà đâu khước già, chiết toá lợi mật đâu ba na khước tỉ già, xà bà a tỳ đà ni ca khước già, đậu khê khước già, xà bà mạt lực khước già, tỉ bà bà na, a tỉ xoa bà, a bà na na, tỉ na na, bà mâu đà na na, tát bà ca lã na na, tát bà tán đá na tỉ cụ ba na na, a ký chi na na, xoa bà, xoa bà, y lợi, mật lợi, y y lợi, y y lan di lợi, sá ha.

Này Hương Tượng Vương! Đây gọi là tuỳ không tam muội Đà La Ni vậy. Đà La Ni này có năng lực dứt hẳn tất cả dục tham, sắc tham và vô sắc tham nhẫn đến dứt trừ tất cả phiền não. Ông nên nhất tâm thọ trì đọc tụng Đà La Ni này qua Thế Giới Ta Bà kia giáo hoá chúng sanh.

Hương Tượng Vương Bồ Tát nói: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi đã thọ trì đọc tụng Đà La Ni tuỳ thuận không Tam Muội ấy, nay tôi muốn qua Thế Giới kia nhưng có lòng e sợ. Tại sao, vì tôi từng nghe Đức Phật nói chúng sanh cõi Ta Bà tệ ác có nhiều tham sân si.

Đức Phật Sơn Vương nói: Này Hương Tượng Vương! Ông thường hoá hiện nhiều thân để giáo hoá chúng sanh, hoặc hiện thân Bà La Môn, thân Ma Hê Thủ La, thân Đế Thích, thân Na La Diên, thân Chư Thiên, thân Quỷ, thân Rồng, thân A Tu La, thân Chuyển Luân Vương, thân Bà La Môn, thân Sát Lợi, Tỳ Xá, Thủ Đà, thân Đại Thần, Trưởng Giả, thân Thanh Văn, Duyên Giác, thân nam, thân nữ để giáo hoá chúng sanh.

Sao lại nói với Thế Giới kia có lòng e sợ ư! Nay ta sẽ ban cho ông đại pháp hành pháp nhất thiết trí huệ hay biết được các hành, hay phá tứ ma hành, hay điều tất cả chúng sanh hành, hay hỉ tất cả chúng sanh hành, chẳng dứt Tam Bảo hành, hay điều tất cả ác long hành, hay phá tất cả chúng sanh ác nghiệp hành, đại từ đại bi hành.

Phá tam ác đạo hành, cứu chúng sanh hành, phá ác kiến hành, hay phá nữ nghiệp hành, tất cả pháp vô tận hành, hay phá tất cả xan tham hành, hay được tất cả tam muội thần thông hành, hay khiến chúng sanh hoan hỉ hành, nhẫn đến có thể được bồ đề đạo hành.

Nếu có chúng sanh nghe các hành này thì nên biết người này có thể phá hoại hằng hà sa các ác nghiệp nhân duyên, dứt tuyệt ba chướng, chỉ trừ tội ngũ nghịch huỷ báng Kinh Phương Đẳng Đại Thừa và chê bai Thánh Nhân.

Vì thế nên có người tín tâm hay nghe hay học các hành như vậy, thì người này tuỳ ý chứng được tam thừa, chẳng rời thập phương Chư Phật, Chư Bồ Tát A La Hán, hay thanh tịnh ba nghiệp tuỳ chúng sanh ý. Nên biết người này có thể xả thí tất cả nhẫn đến đầu mắt, tất cả các ác độc chẳng gia hại được.

Người này nếu lúc Thi La Ba la mật thì được đủ nhẫn giới, giới Thánh Nhân ưa, giới Thánh Nhân nhớ, giới đại tịch tĩnh, giới điều phục Phạm, Thích, Tứ Vương, giới điều phục Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà.

Người này trọn chẳng tự khen mình mà chê trách người, tâm thường quở trách lợi dưỡng thế gian, ngủ yên thức an, thân không bệnh khổ dễ được uống ăn, mọi người đều thích thấy, lúc chết người ấy được thấy Chư Phật, Chư Bồ Tát khen rằng: Lành thay lành thay, người khéo trì cấm giới tinh tiến không lười sẽ sanh nước ta, ta có thể làm cho ngươi trụ bậc Thập Trụ. Do thấy Phật lòng hoan hỷ, do nhân duyên ấy nên xả thân liền sanh tịnh quốc vị ngang bậc Thập Trụ nhẫn đến được vô thượng bồ đề.

Người này nếu hành Tỳ Lê Gia Ba la mật thì thành tựu đại lực thân tâm không tật bệnh đi đứng mạnh mẽ, thành tựu Bố thí Giới Ba la mật. Hàng Chư Thiên và Bát Bộ Thần đều đến cúng dường, nhẫn đến được vô thượng bồ đề.

Nếu lúc hành Sằn Đề Ba la mật, được pháp duyên nhẫn, chẳng giác chẳng thấy tất cả chúng sanh. Người này nếu bị tất cả chúng sanh cắt thẻo thân thể trọn chẳng sanh một niệm giận thù nhẫn đến được vô thượng bồ đề, thường được nhân Thiên cúng dường.

Người này nếu lúc hành Thiền Ba la mật được pháp duyên thiền định giải thoát, thập phương Chư Phật không lúc nào chẳng hộ niệm, nhẫn đến được vô thượng bồ đề, thường được hàng nhân Thiên cúng dường.

Người này nếu lúc hành bát nhã Ba la mật, thường được Chư Phật, Bồ Tát hộ niệm, thích nơi tịch tĩnh điều phục tâm giới, tỏ rõ thông đạt tất cả pháp giới, tâm không nghi ngại, tất cả nhân thiên chẳng thể trở ngại phá hoại được tâm người này, nhẫn đến được vô thượng bồ đề, thường được nhân thiên cúng dường.

Này hương tượng vương! Người thọ trì hành ấy thì qua Thế Giới Ta Bà không còn kinh sợ.

Này hương tượng vương! Nếu là kẻ mà tịnh Thế Giới không chấp nhận thì đều ở cõi Ta Bà ấy, đó là kẻ phạm tội ngũ nghịch, huỷ báng Kinh Điển Phương Đẳng đại thừa, chê bai Thánh Nhân, phạm tứ trọng cấm. Những kẻ như vậy làm ô nhục Thế Giới Ta Bà. Phật Thích Ca Mâu Ni vì bổn nguyện nhân duyên nên hiện thân trong cõi ấy.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần