Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Hai - Pháp Hội Bồ Tát Tạng - Phẩm Thứ Mười Một - Phẩm Bát Nhã Ba La Mật - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ MƯỜI HAI
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
PHẨM THỨ MƯỜI MỘT
PHẨM BÁT NHÃ BA LA MẬT
PHẦN MỘT
Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất:
Thế nào là Đại Bồ Tát Bát Nhã Ba La Mật mà Bồ Tát vì vô thượng Bồ Đề nên y theo đó siêng tu hành Bồ Tát hạnh?
Này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát vì thật hành Bát Nhã Ba La Mật. Nên đối với Pháp Môn vi diệu Bồ Tát tạng ân cần trịnh trọng nghe học thọ trì, hoặc đọc hoặc tụng suy gẫm nghĩa lý, tự mình được thông đạt rồi cũng vì người mà giảng dạy.
Này Xá Lợi Phất!
Nếu có Đại Bồ Tát nghe Phật nói rồi theo đúng pháp mà phụng hành, đối với Pháp Môn vi diệu Bồ Tát tạng ân cần trịnh trọng nghe học thọ trì đọc tụng nghiên tầm thông đạt nghĩa lý và giảng dạy cho người, phải biết người ấy chứng được tướng vô tận huệ như vậy.
Này Xá Lợi Phất!
Huệ ấy có những tướng gì, thế nào nhập chứng?
Này Xá Lợi Phất!
Nói là huệ ấy lấy nghe làm tướng, Bồ Tát đúng như lý mà chứng nhập nên gọi là tướng vô tận huệ. Những tướng ấy Phật sẽ nói rộng.
Này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát vì cầu Chánh Pháp nên lấy dục lạc làm tướng, dục giải làm tướng, phương tiện làm tướng, thiện hữu làm tướng, không kiêu mạn làm tướng, với người đa văn cung kính làm tướng, tôn trọng làm tướng, quanh quẩn làm tướng, khiêm cung làm tướng, gần gũi làm tướng, nghe kỹ làm tướng, tôn thờ làm tướng, tư duy làm tướng, chẳng loạn làm tướng.
Tưởng như trân bảo làm tướng, tưởng là lương dược làm tướng, tưởng dứt hết bịnh làm tướng, chánh niệm làm tướng, xu hướng Bồ Đề làm tướng, thích đại huệ làm tướng, chứng nhập Bồ Đề làm tướng, nghe không nhàm đủ làm tướng.
Xả thêm lớn làm tướng, điều thuận làm tướng, thân căn người đa văn làm tướng, với những việc làm mến vui làm tướng, thân điều thích làm tướng, thân dũng nhuệ làm tướng.
Lại này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát đối với cúng thính pháp, lắng nghe không mỏi làm tướng, nghe chánh nghĩa làm, nghe Chánh Pháp làm tướng, nghe chánh hạnh làm tướng, nghe chứng trí làm tướng, nghe Ba La Mật làm tướng, nghe pháp Bồ Tát tạng làm tướng, nghe các nhiếp pháp làm tướng, nghe phương tiện thiện xảo làm tướng, nghe phạm trụ làm tướng.
Nghe thần thông làm tướng, nghe chánh niệm chánh trí làm tướng, nghe niệm trụ làm tướng, nghe chánh thắng làm tướng, nghe thần túc làm tướng, nghe duyên khởi làm tướng, nghe vô thường làm tướng.
Nghe khổ làm tướng, nghe vô ngã làm tướng, nghe tịch tĩnh làm tướng, nghe không làm tướng, nghe vô tướng làm tướng, nghe vô nguyện làm tướng, nghe không gia hạnh làm tướng, nghe thiện căn gia hạnh làm tướng.
Lại này Xá Lợi Phất!
Tự tại làm tướng, nghe pháp làm tướng, đối trị tạp nhiễm làm tướng, chế phục tất cả phiền não làm tướng, khen ngợi người trí làm tướng, gần kề bực Thánh làm tướng, rời xa kẻ phi Thánh làm tướng.
Lắng nghe bậc thánh làm tướng, nghe các căn làm tướng, nghe tu tập tùy niệm làm tướng, nghe giác phần làm tướng, nghe bát chánh đạo làm tướng, nghe Phật lực, vô sở úy, vô ngại biện, đại từ đại bi đại hỉ đại xả, mười tám Phật Pháp bất cộng làm tướng.
Này Xá Lợi Phất phải biết Đại Bồ Tát nếu ở nơi ấy lắng nghe thì ở nơi ấy hiểu rõ, nếu ở nơi ấy hiểu rõ thì ở nơi ấy hành động đúng.
Tại sao?
Vì nếu Đại Bồ Tát ở nơi Pháp Môn vi diệu Bồ Tát tạng nghe tướng rồi hướng vào thì có vô lượng phương tiện.
Nay Phật lược nói bốn mươi mốt phương tiện.
Một là nếu có Đại Bồ Tát ở nơi Pháp Môn vi diệu Bồ Tát tạng ấy mà sanh dục lạc, phải biết tức là lắng nghe, nghe liền hiểu rõ, đã hiểu rõ thì thật hành chánh hạnh.
Hai là nếu có Bồ Tát ở nơi Pháp Môn ấy mà sanh dục giải, phải biết tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba là nếu có Bồ Tát ở nơi Pháp Môn ấy phương tiện xu nhập, phải biết tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Bốn là nếu có Bồ Tát gần gũi thiện hữu, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Năm là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn, tâm không khinh mạn tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Sáu là nếu có Bồ Tát cung kính người đa văn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Bảy là nếu có Bồ Tát tôn trọng người đa văn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Tám là nếu có Bồ Tát quây quần cung phụng người đa văn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Chín là nếu có Bồ Tát khiêm hạ đối với người đa văn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười là nếu có Bồ Tát gần kề người đa văn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười một là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn mà lắng tai để nghe, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười hai là nếu có Bồ Tát đối với người đa văn mà hầu hạ tiếp rước, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười ba, là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn, tư duy nghĩa lý tâm định chẳng loạn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười bốn là nếu Bồ Tát ở nơi người đa văn có ý tưởng là trân bảo, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười năm là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn có ý tưởng là lương dược, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười sáu là nếu Bồ Tát ở nơi người đa văn có ý tưởng dứt diệt tham sân si, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười bảy là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn nghe rồi hay thọ trì, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười tám là nếu có Bồ Tát xu hướng giác ngộ nơi pháp, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Mười chín là nếu có Bồ Tát thích trí huệ của người đa văn, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn được nghe rồi giác ngộ, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi mốt lá nếu có Bồ Tát lắng nghe chẳng nhàm đủ, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi hai là nếu có Bồ Tát nghe nói Đàn Na thì tăng trưởng xả, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi ba là nếu có Bồ Tát nghe nói Thi La thì thủ hộ giới, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi bốn la nếu có Bồ Tát nghe nói Sằn Đề thì hay tu hạnh nhẫn nhục, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi năm là nếu có Bồ Tát nghe nói Tỳ Lê Gia thì phát khởi tinh tấn không mỏi, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi sáu là nếu có Bồ Tát nghe nói Tĩnh Lự thì nhập chánh định tâm chẳng tán, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi bảy là nếu có Bồ Tát nghe nói Bát Nhã tâm liền tu trí huệ dứt phiền não, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi tám là nếu có Bồ Tát ở nơi người đa văn lòng rất vui mừng, người này tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Hai mươi chín là nếu có Bồ Tát được nghe pháp trồi thân thể điều thích, Bồ Tát ấy tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi là nếu có Bồ Tát được nghe pháp rồi tâm liền dũng nhuệ, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi mốt là nếu có Bồ Tát được nghe Kinh Đại Thừa tâm sanh Tín Nguyện, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi hai là nếu có Bồ Tát nghe nhiếp pháp rồi tâm liền xu nhập, tức lá lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi ba là nếu có Bồ Tát nghe nói niệm trụ liền quán thân thọ tâm pháp, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi bốn là nếu có Bồ Tát nghe nói chánh cần liền dứt bỏ, với pháp lành sanh trưởng, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi năm là nếu có Bồ Tát nghe nói thần túc liền phụng hành sanh thân khinh tánh, dục khinh tánh. Bồ Tát ấy tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi sáu là nếu có Bồ Tát nghe nói Tĩnh Lự thì yên tĩnh tư duy tâm xu nhập, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi bảy là nếu có Bồ Tát nghe hạnh bất khinh trong các pháp, bèn đối với chúng sanh phát khởi đại từ tâm, với kẻ thọ khổ phát khởi đại bi tâm, với Chánh Pháp khởi đại hỉ tâm, với bất thiện khởi đại xả tâm, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi tám là nếu có Bồ Tát nghe nói các căn liền xu nhập các căn ấy, đó là tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, huệ căn và định căn, Bồ Tát ấy tức là lắng nghe hiễu rõ tu chánh hạnh.
Ba mươi chín là nếu có Bồ Tát nghe nói giác phần tâm liền xu nhập giác ngộ pháp tánh, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Bốn mươi là nếu có Bồ Tát nghe nói đạo chi tâm liền xu nhập Niết Bàn chánh lộ, tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Bốn mươì mốt là nếu có Bồ Tát nghe nói Phật lực vô úy, vô ngại trí, đại từ đại bi đại hỉ đại xả, mười tám pháp bất cộng và vô lượng
Phật Pháp, đều xu nhập vô thượng Bồ Đề, Bồ Tát ấy tức là lắng nghe hiểu rõ tu chánh hạnh.
Này Xá Lợi Phất!
Phật đã nói bốn mươi mốt pháp về tướng dạng xu nhập Văn Huệ. Chư Đại Bồ Tát phải nên học. Đây gọi là bổn tướng Đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật Văn Huệ.
Lại này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát tu Bát Nhã Ba La Mật thực hành Bồ Tát hạnh, phải ở nơi Pháp Môn vi diệu Bồ Tát tạng trịnh trọng lắng nghe thọ trì đọc tụng suy gẫm nghĩa lý thông đạt chỉ thú lại giảng dạy cho người về chánh hạnh tư lương ấy.
Này Xá Lợi Phất!
Thế nào là Đại Bồ Tát ở pháp ấy mà khởi chánh hạnh?
Này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát ở pháp ấy mà khởi chánh hạnh là:
Đúng như lời nói mà tu hành kiến lập mà an trụ, đây là khởi chánh hạnh. Nếu có thể chẳng lấy tất cả, đây là khởi chánh hạnh.
Tại sao?
Vì nếu lấy pháp thì gọi là người tà hạnh chấp lấy pháp không xứ không vị. Không bao giờ do pháp tà hạnh ấy mà được xuất ly.
Tại sao?
Vì người không lấy pháp hành ở nơi pháp không hành còn phải sanh nghi, vì không tác dụng. Huống là lấy pháp hành mà chẳng phải tà hạnh. Vì thế nên phải chẳng lấy các pháp mà làm chánh hạnh.
Lại này Xá Lợi Phất!
Nếu ở nơi các pháp không có chướng ngại thì gọi là chánh hạnh. Nếu ở nơi các pháp không khinh miệt thì gọi là chánh hạnh. Nếu ở nơi các pháp chẳng lấy chẳng bỏ chẳng sanh chẳng diệt thì gọi là chánh hạnh. Nhẫn đến nếu ở nơi các pháp không hiệp không tan thì gọi là chánh hạnh.
Lại này Xá Lợi Phất!
Như Phật đã nói:
Nếu có là đúng phải thì không có một chút pháp nào có thể thấy được nghe được cũng không thể nói được, các pháp như vậy chẳng phải có thể thấy được, chẳng phải có thể nắm lấy được.
Tại sao?
Vì tất cả các pháp đều là một tướng, đó là vô tướng.
Lại này Xá Lợi Phất!
Tất cả các pháp tánh nó vốn vô tướng. Nếu có Bồ Tát nói nơi vô tướng thì vô tướng trở lại lẽ ra là nói được.
Tại sao?
Vì vô tướng và hữu tướng đều là vô tướng cả. Chẳng nên nói rằng đây hữu tướng, đây vô tướng.
Này Xá Lợi Phất!
Nếu có Bồ Tát tỏ ngộ được tất cả pháp tướng như vậy tức là vô tướng chẳng thể thấy được, chẳng thể nắm lấy được, biết rõ đúng như pháp thì gọi là chánh hạnh. Đại Bồ Tát siêng tu Chánh Pháp hạnh ấy rồi ở nơi các pháp sẽ chứng nhập huệ vô chướng chiếu minh. Đây gọi là tướng dạng chánh hạnh Bát Nhã Ba La Mật của Đại Bồ Tát.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Người sáng suốt an trụ chánh hạnh
Với Bồ Tát tạng khéo quyết định
Nói pháp người ấy chẳng khởi chấp
Hành tướng không chấp thủ như vậy
Chứng được các pháp chẳng là không
Chẳng phải các pháp bình đẳng không
Chẳng phải pháp không có sở chấp
Tướng chánh hạnh không chấp như vậy
Nơi pháp không thủ cũng không xả
Cũng chẳng lấy pháp để làm pháp
Không lấy gọi là các pháp tướng
Chánh hạnh không lấy tướng như vậy
Nơi các pháp nếu trí vô ngại
Trí ấy không gì chẳng đốt cháy
Nơi trí đốt cháy không nắm lấy
Chánh hạnh các pháp tướng như vậy
Người trí an trụ đức viễn ly
Với pháp phải khởi siêng tinh tấn
Nếu hay y chỉ quy tắc hành
Bấy giờ sẽ nhập môn thanh tịnh
Môn thanh tịnh ấy thông các pháp
Cũng biết dục giải của Hữu Tình
Người trí dầu biết không chỗ thấy
Mà hay diễn tuyên pháp như vậy
Nơi pháp thậm thâm rõ thắng nghĩa
Nơi thắng nghĩa sâu thường biết rõ
Vọt hiện vô biên công đức hạnh
Trí sáng đa văn như đại hải
Trí sáng đa văn như đại hải
Nơi các văn nghĩa được nói kia
Cứu cánh không ai chứng được đó
Bởi văn nghĩa kia đều vô biên
Chánh hạnh chơn thiệt luôn bất động.
Lại này Xá Lợi Phất!
Lúc đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật, với Pháp Môn vi diệu Bồ Tát tạng ân cần lắng nghe nhẫn đến giảng dạy cho người rồi, phải biết đại Bồ Tát ấy ở nơi tất cả pháp được quang minh lớn hay phá tất cả hắc ám vô minh và các màn lòa. Quang minh ấy tức là trí huệ.
Tại sao?
Vì biết rõ đứng thiệt các pháp thiện bất thiện vậy. Đại Bồ Tát tu pháp ấy được minh huệ rồi, dầu có gặp nạn khổ đến chết cũng không tạo các pháp bất thiện.
Này Xá Lợi Phất!
Vì muốn đứt hẳn các pháp bất thiện nên đại Bồ Tát tùy nghe được Chánh Pháp thì rất khéo thông đạt. Đã thông đạt rồi thì nói là mâu ni tịch tĩnh. Đây gọi là tướng chánh hạnh lúc Đại Bồ Tát tu Bát Nhã Ba La Mật.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Như người vào nhà tối
Che bít tuyệt ánh sáng
Dầu có các sắc tượng
Mắt sáng cũng chẳng thấy
Như vậy tùy có người
Tâm đủ các minh giải
Chẳng được nghe Chánh Pháp
Sao hiểu được thiện ác
Đa văn hiểu rõ pháp
Đa văn chẳng tạo ác
Đa văn bỏ vô nghĩa
Đa văn được Niết Bàn
Khéo nghe thêm lớn văn
Đa văn thêm lớn huệ
Huệ hay tu tịnh nghĩa
Được nghĩa thì cảm vui
Thông huệ được nghĩa rồi
Chứng hiện pháp Niết Bàn
Tương ưng pháp tịnh giác
Chứng được vui đệ nhứt
Nghe Bồ Tát tạng rồi
Khéo an trụ Chánh Pháp
Làm quang minh cho đời
Tu diệu hạnh Bồ Tát.
Lại này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát vì tu hành Bát Nhã Ba La Mật nên ở nơi người chánh hạnh hay thọ trì Kinh Bồ Tát tạng lòng rất cung kính có ý tưởng là thiện tri thức, và càng tìm cầu Pháp Môn vi diệu đại Bồ Tát tạng cho Pháp Môn ấy càng thêm sáng sạch.
Này Xá Lợi Phất!
Vì cầu Bồ Tát tạng nên Bồ Tát ấy phát sanh tín dục sách lệ tinh tấn kiểm nhiếp tâm mình khiến an trụ chánh định. Đại Bồ Tát ấy phương tiện tu hành tứ chánh cần, được không chướng ngại trong tất cả pháp. Đây là tướng chánh hạnh Bát Nhã Ba La Mật của đại Bồ Tát.
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:
Quan niệm ngươi thuyết pháp
Tức là thiện tri thức
Cung kính lắng nghe pháp
An trụ nơi chánh hạnh
Dục giải thường không thối
Tinh tấn thường cao dung
Tịnh huệ thường sữa trau
Nơi trí thường an trụ
Tự nhiên đạt các pháp
Chẳng theo nơi tín hành
Dùng trí quán các pháp
Đây là lời Phật dạy
Người trí phân biệt câu
Lý nghĩa khéo siêng học
Nơi pháp thiện bất thiện
Thường tu thường viễn ly
Tâm không hề nhàm mỏi
Nơi pháp không quên mất
Thân dục đều khinh an
Mau được tâm tinh tấn
Do nghe pháp thêm trí
Trí thêm niệm không thối
Trí luôn y niệm trụ
Biết rõ pháp tịnh uế
Học nơi pháp vô thượng
Được sức niệm huệ thắng
Biết chúng sanh dục giải
Tự học thời gian lâu
Học pháp đã thăng tiến
Cực tiến trí thanh tịnh
Biết chúng sanh dục giải
Theo cơ bèn khai thị.
Lại này Xá Lợi Phật!
Lúc tu hành Bát Nhã Ba La Mật, đại Bồ Tát tìm cầu Pháp Môn vi diệu Bồ Tát tạng như vậy thông đạt giác huệ y theo thiện pháp minh môn thanh tịnh ấy. Bồ Tát phải thường tu học như vậy.
Này Xá Lợi Phất!
Nếu có Bồ Tát tu học nơi pháp thì phải suy nghĩ hai nhơn duyên có thể phát sanh chánh kiến.
Những gì là hai?
Đó là nghe âm thanh nơi người khác và tự mình tác ý đúng lý. Bồ Tát ấy lại suy nghĩ nghe âm thanh nơi người và tác ý đúng lý có những tướng gì?
Liền lại suy nghĩ nếu có tướng thích chánh định mà tu thì nên thật hành Pháp Môn vi diệu Bồ Tát tạng mà chư Bồ Tát chưa từng được nghe.
Lại nếu chẳng được nghe Phật Pháp luật giáo chỉ ở trong tam ma địa mà sanh ý tưởng đủ rồi, nên biết người ấy do sức ngạo mạn mà phát khởi tăng thượng mạn. Phật nói người ấy chẳng có
thể giải thoát sanh già bịnh chết sầu ưu khổ não. Đã chẳng thoát được các khổ nhiệt não, há lại thoát được năm môn sanh tử kia, bị nó nhận chìm trôi lăn chẳng dứt. Người ấy thiệt chẳng phải giải thoát mà tự nói tôi đã giải thoát.
Thiệt chưa khỏi khổ mà tự nói tôi đã khỏi khổ. Vì thế nên đức Như Lai y cứ người ấy mà thuyết pháp như thiệt, nếu có thể từ nơi người khác mà tùy thuận lắng nghe thì giải thoát được các lão tử khổ não.
Bồ Tát ấy lại nghĩ rằng như tôi trước kia nghe đức thế Tôn nói:
Đa văn biết rõ pháp
Đa văn chẳng tạo ác
Đa văn bỏ vô nghĩa
Đa văn được Niết Bàn
Nghe pháp thêm lớn văn
Văn hay thêm lớn huệ
Huệ hay tu tịnh nghĩa
Được nghĩa hay cảm vui
Thông huệ dược nghĩa rồi
Chúng hiện pháp Niết Bàn
Nghe pháp được tịnh huệ
Chứng được vui đệ nhứt
Này Xá Lợi Phất!
Vì thế nên chư đại Bồ Tát suy nghĩ như vậy rồi nên đối với Pháp Môn vi diệu Bồ Tát tạng và Phật Pháp luật giáo mà ân cần trịnh trọng lắng nghe thọ trì đọc tụng giảng dạy cho người.
Lại này Xá Lợi Phất!
Nếu các hữu tình ở nơi Pháp Môn vi diệu Bồ Tát tạng dầu được nghe mà chẳng có thể phương tiện tác ý đúng lý. Phải biết người ấy chẳng thể tu chánh hạnh nói thánh đạo.
Vì thế nên đức Như Lai y cứ nơi người ấy mà nói pháp yếu rằng:
Nếu muốn giải thoát sanh lão bệnh tử thì phải có tự mình suy nghĩ đúng lý. Chư đại Bồ Tát phải học như vậy.
Này Xá Lợi Phất!
Thế nào gọi là phương tiện đúng lý?
Những gì là Bồ Tát tác ý đúng lý mà có thể tu học?
Này Xá Lợi Phất!
Thế nào gọi là phương tiện đúng lý?
Những gì là Bồ Tát tác ý đúng lý mà có thể tu học.
Này Xá Lợi Phất!
Phương tiện đúng lý là không có một pháp nào hoặc hiệp hay ly cả.
Tại sao?
Vì phương tiện đúng lý là chẳng phải phương tiện vậy.
Này Xá Lợi Phất!
Nếu Bồ Tát có an trụ phương tiện và tác ý đúng lý, phải biết tướng ấy chỉ là âm thanh, mà âm thanh ấy, tánh nó không bị phát khởi cũng chẳng chuyển khởi và do nơi kia mà phát âm thanh.
Tại sao?
Vì tất cả đều bất khả đắc vậy. Bồ Tát lại quan sát âm thanh ấy, tiền tế hậu tế từ gì mà sanh, qua đâu mà diệt. Quan sát như vậy trọn bất khả đắc.
Lại suy tìm âm thanh ấy là tại đã nói, là tại nay nói, là tại sẽ nói?
Lại suy tìm âm thanh ấy là hoặc đã bị nói, hoặc nay bị nói, hoặc sẽ bị nói?
Âm thanh ấy là vì đoạn dứt nên đã nói, vì đoạn dứt nên nay nói, vì đoạn dứt nên sẽ nói?
Âm thanh ấy là vì chứng nhập nên đã nói, vì chứng nhập nên nay nói, vì chứng nhập nên sẽ nói.
Tất cả lẽ tìm cầu âm thanh như vậy rồi trọn không có được. Rồi lại quan sát hoặc tướng quá khứ, hoặc tướng vị lai, hoặc tướng hiện tại cũng đều không có được.
Này Xá Lợi Phất!
Lúc đại Bồ Tát chánh quan sát thì gọi là phương tiện tác ý đúng lý. Chư đại Bồ Tát phải học như vậy.
Lại này Xá Lợi Phất!
Thế nào gọi là đại Bồ Tát quan sát đúng lý?
Này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ tát quan sát tất cả pháp, tự tánh nó tịch diệt.
Đây gọi là quan sát đúng lý. Nếu quan sát các pháp tự tánh nó tịch tĩnh.
Đây gọi là quan sát đúng lý. Nếu quan sát các pháp, tự tánh nó không tịch.
Đây gọi là quan sát đúng lý. Nếu quan sát các pháp vào tánh bình đẳng.
Đây gọi là quan sát đúng lý. Nếu quán các pháp cứu cánh vô sanh, nếu quán các pháp cứu cánh bất sanh, nếu quán các pháp cứu cánh bất khởi, nếu quán các pháp cứu cánh tịch diệt, đều gọi là quán sát đúng lý vậy.
Lúc quán sát như vậy, đại Bồ Tát cũng chẳng thấy có người hay quan sát. Phải nên quan sát như vậy, đó là chẳng phải quan sát chẳng phải chẳng quan sát vậy.
Nếu có Bồ Tát quan sát như vậy thì gọi là quan sát đúng lý, nếu quan sát khác đây thì gọi là quan sát chẳng đúng lý.
Lại này Xá Lợi Phất!
Thế nào là đại Bồ Tát phải nên học phương tiện đúng lý như vậy?
Này Xá Lợi Phất!
Phương tiện đúng lý của đại Bồ Tát là:
Chẳng phải đối với chút ít pháp có ngu mê. Chẳng phải đối với chút it pháp có chướng ngại. Không có chút ít pháp nào mà chẳng phải là môn giải thoát. Không có vì đoạn dứt một phần ít phát
khỏi tinh tấn. Chẳng phải vì chứng một phần ít pháp mà dung mãnh tinh tấn. Trên đây đều là phương tiện đúng lý vậy.
Này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát phải dùng chánh kiến như vậy để chánh quan sát các pháp như chỗ chánh kiến ấy.
Thế nào gọi là quan sát các pháp như chỗ chánh kiến ấy?
Này Xá Lợi Phất không chỗ thấy thì gọi là quan sát các pháp.
Những gì là không chỗ thấy?
Này Xá Lợi Phất!
không chỗ thấy ấy gọi là vô sanh. Nói vô sanh ấy là vô khởi. Nói
vô khởi ấy là không chỗ chiếu.
Y cứ Chánh Pháp ấy mà đức Như Lai nói rằng:
Nếu có Bồ Tát lúc quan sát các pháp ấy vô sanh, tức là xu nhập chánh tánh quyết định. Luận về chánh kiến, đó là xu nhập chánh tánh quyết định.
Này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát suy nghĩ như vầy:
Do nhân duyên gì sẽ được xu nhập chánh tánh quyết định?
Này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát phải học như vầy:
Nếu quan sát ngã kiến là bình đẳng thì tất cả pháp bình đẳng. Quan sát như vậy gọi là xu nhập chánh tánh quyết định. Vì thế nên chư đại Bồ Tát muốn xu nhập chánh tánh quyết định thì phải ở nơi Pháp Môn vi diệu Bồ Tát tạng ân cần lắng nghe thọ trì đọc tụng nghiên cứu nghĩa lý lại giảng dạy rộng cho người thì sẽ ở nơi Pháp Môn ấy phương tiện tác ý tu học đúng lý. Đây gọi là Bồ Tát tu hành Bát Nhã Ba La Mật vì vô thượng Bồ Đề thực hành bồ Tát hạnh.
Lại này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát lúc tu hành Bát Nhã Ba La Mật, vì cầu giác huệ rất thanh bạch, nên do pháp minh môn diệu thiện thanh tịnh mà chuyên cần phương tiện chứng nhập đúng lý quan sát câu đúng lý.
Thế nào là chứng nhập đúng lý và những gì là câu đúng lý?
Này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát chứng nhập đúng lý là:
Y xa ma tha chứng nhập. Y tỳ bát xá na chứng nhập. Chánh hạnh chứng nhập. Như lý chứng nhập. Thân viễn ly chứng nhập. Tâm điều thuận chứng nhập. Phi đoạn chứng nhập. Phi thường chứng nhập. Nhơn duyên chứng nhập. Duyên khởi chứng nhập. Vô ngã, vô nhơn, vô thọ mạng chứng nhập.
Chưa đến đã đến hoặc có hoặc không chứng nhập. Không có chuyển dời nhơn quả chẳng hoại chứng nhập.
Dầu tu tập không vô tướng, vô nguyện chứng nhập mà chẳng lấy không vô tướng vô nguyện chứng vậy.
Dầu ở nơi tam ma địa tam ma bát đề chứng nhập mà chẳng lấy sức lực ấy thọ sanh chứng vậy.
Dầu lấy thần thông trí chứng nhập mà chẳng tận các lậu chứng vậy.
Dầu quán sát vô sanh chứng nhập mà chẳng chánh xu quyết định chứng vậy.
Dầu quán chúng sanh vô ngã chứng nhập mà chẳng bỏ đại bi chứng vậy.
Dầu quán tất cả chúng sanh đáng sợ chứng nhập, mà cố ý lấy các cõi chứng vậy.
Dầu ở nơi ly dục tịch diệt chứng nhập mà ở nơi pháp ly dục chẳng tác chứng vậy.
Dầu bỏ lạc diệu dục chứng nhập mà chẳng bỏ lạc pháp chứng vậy.
Dầu bỏ tất cả các hí luận tự giác chứng nhập mà chẳng bỏ thiện xảo phương tiện chứng vậy. Trên đây gọi là chứng nhập đúng lý. Đại Bồ Tát muốn được chứng nhập đúng lý như vậy thì phải học Bát Nhã Ba La Mật.
Lại này Xá Lợi Phất!
Lúc tu hành Bát Nhã Ba La Mật, đại Bồ Tát học câu Chánh Pháp đúng lý thế nào?
Này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát phải như vầy mà biết câu đúng lý, đó là những câu:
Xuất sanh, xu lý, Pháp Môn, diện môn, thị nhơn, tích tập, bất tương vi, vô chứng luận, thị xả, vô chấp thủ, vô khí xả, vô hí luận, vô xả, vô phỉ báng, vô khinh miệt, tùy túc, vô tranh, vô thối chuyển, vô đối trị.
Này Xá Lợi Phất!
Câu đúng lý là câu thiệt tánh, câu như tánh, câu phi bất như tánh, câu chơn như, câu như lý, câu tam thế bình đẳng, câu ly phân biệt.
Lại này Xá Lợi Phất!
Câu đúng lý là câu sắc thức không y trụ, câu thọ thức tưởng thức hành thức và thức thức đều không y trụ, câu nhãn sắc nhãn sắc tánh không y trụ, câu nhĩ thanh nhĩ thức tánh không y trụ, câu tỷ hương tĩ thức tánh không y trụ, câu thiệt vị thiệt thức tánh không y trụ, câu thân xúc thân thức tánh không y trụ, câu ý pháp ý thức tánh không y trụ.
Lại này Xá Lợi Phất!
Câu đúng lý là câu y nghĩa, câu y pháp, câu y trí, câu y liễu nghĩa. Vô lượng Pháp Môn như vậy gọi là câu đúng lý. Vì thế nên đại Bồ Tát chứng nhập tinh tấn phương tiện đúng lý lúc quan sát như vậy cũng chẳng thấy có người hay quan sát.
Tại sao?
Vì chẳng phải quan sát chẳng phải chẳng quan sát vậy. Quan sát như đây thì gọi là như lý quán, nếu quan sát khác thì gọi là phi lý quán.
Lại này Xá Lợi Phất!
Lúc tu hành Bát Nhã Ba La Mật, đại Bồ Tát phải học chánh quán đúng lý thế nào?
Này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát ấy phải chánh quán như vầy:
Vì ta như lý thì quan sát các pháp đều như lý. Vì ta vô ngã thì quán sát các pháp cũng không có ngã. Vì chúng sanh vô ngã thì quan sát các pháp cũng đều không có ngã.
Này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát quan sát như vậy gọi là như lý quán.
Thế nào là đại Bồ Tát tu hành như lý phương tiện?
Này Xá Lợi Phất!
Nên biết rằng đại Bồ Tát chẳng quan sát tánh sanh tử như cùng tánh Niết Bàn như lý chung xen tạp nhau, quán như vậy thì gọi là phương tiện như lý. Đại Bồ Tát quán tánh sanh tử cùng tánh Niết Bàn đồng một
hiệp tướng không sai khác cũng chẳng phân biệt là tương ưng hay vi bội. Quán như vậy thì gọi là phương tiện như lý, cũng được gọi là chánh quán như lý.
Này Xá Lợi Phất!
Nên biết rằng đại Bồ Tát có bao nhiêu phương tiên như lý đều ở chỗ vô lượng chúng sanh mà phát khởi. Nếu chỗ chúng sanh chẳng vứt bỏ, nơi các pháp chẳng phá hoại, thì gọi là Bồ Tát phương tiện như lý.
Này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát phải biết tướng như vậy, văn như vậy, chứng nhập đúng lý như vậy, quan sát đúng lý như vậy, chánh kiến đẳng lưu đúng lý như vậy. Đây gọi là Bồ Tát chánh huệ.
Này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát phải tu hành chánh hạnh như vậy để thành mãn bát Nhã Ba La Mật.
Lại này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát lúc tu hành Bát Nhã Ba La Mật, chỗ có Bát Nhã tự tánh thanh
tịnh chẳng chung lộn với tất cả pháp hữu vi.
Chẳng chung lộn với những pháp gì?
Này Xá Lợi Phất!
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với vô minh, chẳng chung lộn với hành, nhẫn đến chẳng chung lộn với lão tử.
Bát Nhã ấy chẳng ấy chẳng chung lộn với thân kiến, nhẫn đến chẳng chung lộn với sáu mươi hai kiến chấp.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với cao mạn, chẳng chung lộn với hạ liệt, chẳng chung lộn với tám pháp thế gian.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với ngũ uẫn thập nhị xứ thập bát giới nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả sở duyên tác ý, chẳng chung lộn với mạn, hạ mạn, tà mạn, nhẫn đến chẳng chung lộn với hai mươi mốt tùy phiền não.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với vi tế hạ trung thượng phẩm tham nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả phiền não.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với ngu tối màn lòa che chướng các triền, nhẫn đến chẳng chung lộn với các pháp tùy thuận thối chuyển phần.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với ma phiền não dục tranh uế trược, chẳng chung lộn với uẩn ma, tử ma, nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả ma nghiệp.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với ma phiền não đuc tranh uế trược, chẳng chung lộn với uẩn ma, tử ma, thiên ma, nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả ma nghiệp.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với chấp ngã, chúng sanh, thọ mạng, sát thủ thú, dưỡng dục, ý sanh, trí giả, kiến giả, nhẫn đến chẳng cùng chung lộn với các pháp ở nơi ngã kiến.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng, pháp chướng, kiến chướng, trí chướng, nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả tùy tục tập khí
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với tư duy phân biệt, chẳng chung lộn với tướng mạo, sở duyên, kiến, văn, niệm thức, nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả kiết phược tăng ích.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với xan xả, trì phạm, nhẫn giận, siêng lười, tán định, ngu huệ, nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả Ba La Mật, năng trị sở trị các pháp trí tánh.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với viễn ly, chẳng chung lộn với trụ bất viễn ly, tà tánh, chánh tánh, thiện bất thiện, hữu tội vô tội, sanh tử Niết Bàn, nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả pháp đối trị
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với các thứ tánh sai biệt, tánh quốc độ sai biệt, tánh chư Phật sai biệt, tánh hữu tình sai biệt, tánh các pháp sai biệt. Tất cả tánh sai biệt đều không chung lộn.
Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với vô trí, chẳng chung lộn với trí thức, thế tục, thắng nghĩa, nhẫn đến chẳng chung lộn với tất cả hữu tình tướng mạo tác ý Bát Nhã ấy chẳng chung lộn với huệ chẳng hiện hành, chẳng chung lộn với vô thân, vô hình vô tướng, vô vi, nhẫn đến chẳng chung lộn với các pháp tư duy, tâm, ý,thức, an trụ v.v…
Này Xá Lợi Phất!
Lúc tu hành Bát Nhã Ba La Mật, đại Bồ Tát có được Bát nhã rất vi diệu thanh tịnh, chẳng chung lộn với vô lượng vô biên pháp hữu vi như vậy. Đây gọi là tu hành Bát Nhã Ba La Mật, tướng đại Bồ Tát Bát Nhã. Phải nên học như vậy.
Lại này Xá Lợi Phất!
Đại Bồ Tát an trụ Đại thừa đại Bồ Tát tạng lúc tu hành Bát Nhã Ba La Mật được Bát Nhã phân biệt thiện xảo. Nên biết đại Bồ Tát ấy liền ở trong các pháp dùng Bát Nhã ấy sáng rõ thông đạt được thiện xảo.
Thế nào gọi là Bát Nhã ấy phân biệt thiện xảo?
Này Xá Lợi Phất!
Thiện xảo ấy có vô lượng vô biên, nay Phật sẽ lược nói mười thứ. Đó là uẩn pháp thiện xảo, giới pháp thiện xảo, xứ pháp thiện xảo, đế pháp thiện xảo, vô ngại giải thiện xảo, y xu thiện xảo, tư lương thiện xảo, đạo pháp thiện xảo, duyên khởi thiện xảo và nhất thiết pháp thiện xảo. Mười thứ thiện xảo vi diệu ấy có bao nhiêu phân biệt, nếu thông đạt được thì gọi là Bát Nhã phân biệt. Đại Bồ Tát phải nên học như vậy.
Này Xá Lợi Phất!
Thế nào là đại Bồ Tát do tu Bát Nhã Ba La Mật nên có thể thông đạt uẩn pháp thiện xảo?
Này Xá Lợi Phất!
Uẩn pháp thiện xảo là y cứ uẩn pháp mà phát khởi ngôn thuyết.
Những ngôn thuyết gì?
Này Xá Lợi Phất!
Ngôn thuyết ấy như ảo, hóa, dương diệm, mộng, ảnh, hưởng. Do đó đức Như Lai dùng vô ngại biện vì chúng sanh mà nói pháp ấy.
Này Xá lợi Phất!
Phật nói sắc ấy như khối bọt nước. Chính khối bọt ấy vốn không có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Bởi tánh khối bọt là tự tánh sắc. Đại Bồ Tát ở nơi pháp ấy thiện xảo biết rõ, thì gọi là uẩn pháp thiện xảo vậy.
Lại này Xá Lợi Phất!
Phật nói thọ ấy như bóng nước. Chính bóng nước ấy vốn không ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Bởi tánh bóng nước là thọ tự tánh. Đại Bồ Tát ở nơi pháp ấy biết rõ thiện xảo thì gọi là uẩn pháp thiện xảo vậy.
Lại này Xá Lợi Phất!
Phật nói tưởng ấy như dương diệm. Chính dương diệm ấy vốn không ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Bởi tánh dương diệm là tự tánh tưởng. Đại Bồ Tát ở nơi pháp ấy thiện xảo biết rõ thì gọi là uẩn pháp thiện xảo vậy.
Lại này Xá Lợi Phất!
Phật nói hành ấy như cây chuối. Chính cây chuối ấy vốn không ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Bởi tánh cây chuối ấy là tự tánh hành. Đại Bồ Tát ở nơi pháp ấy thiện xảo biết rõ thì gọi là uẩn pháp thiện xảo vậy.
Lại này Xá Lợi Phất!
Phật nói thức ấy như sự ảo thuật. Chính sự ảo ấy vốn không ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Bởi tánh sự ảo thuật ấy là tự tánh thức. Đại Bồ Tát ở nơi pháp ấy thiện xảo biết rõ thì gọi là uẩn pháp thiện xảo vậy.
Này xá Lợi Phất!
Nói là uẩn ấy có tên thế gian. Pháp thế gian tức là tướng bại hoại. Vì thế nên biết tánh thế gian là tự tánh uẩn.
Những gì là tánh thế gian?
Đó là tánh vô thường, tánh khổ, tánh vô ngã. Những tánh ấy là tánh uẩn. Tánh uẩn ấy tức là tánh thế gian. Đại Bồ Tát ở trong đó nếu thiện xảo biết rõ thì gọi là uẩn pháp thiện xảo vậy. Đại Bồ Tát tu Bát Nhã Ba La Mật phải nên tu học như vậy.
Lại này Xá Lợi Phất!
Thế nào là đại Bồ Tát do tu hành Bát Nhã Ba La Mật mà có thể thông đạt giới pháp thiện xảo?
Này Xá Lợi Phất!
Giới pháp thiện xảo là nói Pháp Giới tức là địa giới, tại sao?
Vì Pháp Giới ấy chẳng phải tướng cứng rắn vậy.
Lại Pháp Giới tức là thủy giới, tại sao?
Vì Pháp Giới ấy chẳng phải tướng ướt nhuần vậy.
Lại Pháp Giới tức là hỏa giới, tại sao?
Vì Pháp Giới ấy chẳng phải tướng thành thục vậy.
Lại Pháp Giới tức là phong giới, tại sao?
Vì Pháp Giới ấy chẳng phải tướng giao động vậy.
Này Xá Lợi Phất!
Ở trong đây, nếu đại Bồ Tát biết rõ như thiệt, thì gọi là giới pháp thiện xảo vậy.
Lại này Xá Lợi Phất!
Nói Pháp Giới tức là nhãn thức giới, tại sao?
Vì Pháp Giới ấy chẳng phải tướng soi sáng vậy.
Lại Pháp Giới tức là nhĩ thức giới, tại sao?
Vì Pháp Giới ấy chẳng phải tướng nghe tiếng vậy.
Lại Pháp Giới tức là tỷ thức giới, tại sao?
Vì Pháp Giới ấy chẳng phải tướng ngửi hương vậy.
Lại Pháp Giới tức là thiệt thức giới, tại sao?
Vì Pháp Giới ấy chẳng phải tướng nếm vị vậy.
Lại Pháp Giới tức là thân thức giới, tại sao?
Vì Pháp Giới ấy chẳng phải tướng giác xúc vậy.
Lại Pháp Giới tức là ý thức giới, tại sao?
Vì Pháp Giới ấy chẳng phải tướng phân biệt vậy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Phật Danh - Phần Ba Mươi Bảy
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Phương Quảng - Phần Mười Hai - Tâm Giải Thoát
Phật Thuyết Kinh ưu Bà Tắc Giới - Phẩm Hai - Phát Tâm Bồ đề
Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Lõa Hình Phạm Chí
Phật Thuyết Kinh Lâu Các Chánh Pháp Cam Lộ Cổ
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Ba - Phẩm Tương ưng - Phần Một