Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Sáu Mươi Mốt - Pháp Hội Vô Tận ý Bồ Tát - Phần Chín

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ SÁU MƯƠI MỐT

PHÁP HỘI VÔ TẬN Ý BỒ TÁT  

PHẦN CHÍN  

Thưa Tôn Giả! Thế nào là Bồ Tát từ vô ngại trí?

Nơi các âm thanh đều quán biết rõ: Những là ngữ ngôn văn tự âm thanh của Chư Thiên, Long, Bát Bộ, Thần, Nhân và Phi Nhân thảy đều có thể biết cả. Ngũ Đạo tạp loại chúng sanh như vậy, tuỳ theo chủng loại ấy mỗi mỗi ngữ ngôn văn tựâm thanh mà vì họ thuyết pháp. Đây gọi là từ vô ngại trí.

Ngữ pháp văn tự như vậy, Bồ Tát tư duy hiểu rõ vô ngại. Bồ Tát biết một ngôn ngữ, hai, ba ngôn ngữ nhẫn đến nhiều ngôn ngữ, ngôn ngữ của nam, của nữ, của phi nam nữ, ngôn ngữ quá khứ, vị lai, hiện tại đều biết rõ cả. Biết ngôn ngữ chứa một chữ đến nhiều chữ. Đây gọi là từ vô ngại trí.

Từ vô ngại trí ấy, lúc nói không có sai lầm không có trệ ngại, lời nói vi diệu thông sướng chắc thiệt chánh trực không có thô, bao nhiêu văn từ đầy đủ trang nghiêm, thính chúng được nghe không ai là chẳng hoan hỷ.

Các thứ âm thanh vi diệu như vậy, sâu xa rộng khắp trang nghiêm Tục Đế và đệ nhất nghĩa đế. Dùng tên trí huệ khéo bắn tà kiến. Từ vô ngại ấy được Chư Phật hứa khả, có thể làm cho chúng sanh đêu hoan hỷ. Đây gọi là Bồ Tát từ vô ngại trí mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn Giả! Thế nào là Đại Bồ Tát lạc thuyết vô ngại trí mà chẳng thể cùng tận?

Diễn nói vô ngại, diễn nói chẳng trụ, diễn nói nhanh lẹ, diễn nói nhạy bén, như chỗ hỏi đáp, trả lời không có chướng ngại, trả lời không có chống trái, là trả lời tương ưng, trả lời trụ sức, nhẫn nhịn, trả lời y nơi hai đế.

Trả lời y nơi thí, giới, nhẫn, tiến, định, huệ, trả lời y nơi tất cả pháp chương cú, trả lời y nơi nghĩa thậm thâm của niệm, xứ, chánh cần, như ý, căn, lực, giác đạo, trả lời y nơi tịch diệt tư duy, đây là lạc thuyết vô ngại trí.

Lạc thuyết vô ngại trí ấy, nếu tất cả ngôn ngữ văn tự phân biệt chánh trực mà đáp. Đó là tất cả thiền định Tam Ma Bạt Đề Chân Đế trí mà đáp, biện luận thông sướng ba thừa tuỳ tâm hành tất cả chúng sanh như chỗ sở ưng mà đáp, lời nói xảo diệu, chẳng phải như dê câm thô bạo điệu hí, không hề có những lời lẽ xấu dở như vậy.

Lời nói ra tịch diệt được người thọ dụng. Lời nói oai đức không có triền phược, lời nói tương ưng không trái vi diệu nhu hoà. Lời nói không bị chê trách được Thánh Nhân khen. Như lời dạy bảo của Phật Thế Tôn phạm âm trong suốt tất cả đều nghe.

Lạc thuyết vô ngại trí ấy được Phật hứa khả vì chúng sanh khác mà nói pháp vi diệu, nghe pháp ấy được vui xuất thế dứt hết các khổ. Đây gọi là lạc thuyết vô ngại trí vậy.

Thưa Tôn Giả! Đây gọi là Đại Bồ Tát tứ vô ngại trí mà chẳng thể cùng tận.

Thưa Tôn Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát có bốn y pháp chẳng cùng tận.

Những gì là Bốn y?

Y nghĩa chẳng y ngữ, y trí chẳng y thức, y Kinh liễu nghĩa chẳng y Kinh chẳng liễu nghĩa và y pháp chẳng y nhân.

Thế nào là Bồ Tát y nghĩa chẳng y ngữ?

Ngữ ấy, là nếu nhập vào trong thế pháp thì có chỗ nói. Nghĩa ấy là hiểu pháp xuất thế không có tướng văn tự.

Ngữ ấy, là nói bố thí điều phục ủng hộ. Nghĩa ấy, là biết thí, giới, nhẫn vào tánh bình đẳng.

Ngữ ấy, là xưng nói sanh tử. Nghĩa ấy, là biết sanh tử không có tánh.

Ngữ ấy, là nói Niết Bàn vị. Nghĩa ấy, là biết Niết Bàn không có tánh.

Ngữ ấy, là nói các thừa tuỳ chỗ an ở. Nghĩa ấy, là khéo biết các thừa nhập vào môn trí nhất tướng.

Ngữ ấy, hoặc nói các xả thí. Nghĩa ấy, ba thứ thanh tịnh.

Ngữ ấy, là nói thân khẩu ý thọ trì tinh giới công đức oai nghi. Nghĩa ấy là tỏ thân khẩu ý đều không có sở tác mà có thể hộ trì tất cả tinh giới.

Ngữ ấy, nếu nói nhẫn nhục dứt trừ sân khuể, cống cao, kiêu mạn. Nghĩa ấy, tỏ thấu các pháp được vô sanh nhẫn.

Ngữ ấy, nếu nói siêng tu tất cả thiện căn. Nghĩa ấy, an trụ tinh tiến không có chung thuỷ.

Ngữ ấy, nếu nói các thiền giải thoát tam muội. Nghĩa ấy, biết diệt tận định.

Ngữ ấy, đều có thể khai thị tất cả văn tự trí huệ thiện căn. Nghĩa ấy, biết nghĩa huệ ấy chẳng thể tuyên nói.

Ngữ ấy, nói ba mươi bảy pháp trợ đạo. Nghĩa ấy, chánh biết tu hành các trợ đạo pháp hay chứng được quả.

Ngữ ấy, nói khổ tập đạo đế. Nghĩa ấy, chứng được diệt đế.

Ngữ ấy, nói vô minh căn bổn nhẫn đến sanh duyên lão tử. Nghĩa ấy, biết vô minh diệt nhẫn đến sanh lão tử diệt.

Ngữ ấy, nói pháp trợ định huệ. Nghĩa ấy, sáng trí giải thoát.

Ngữ ấy, nói tham khuể si. Nghĩa ấy, hiểu ba bất thiện căn tức là giải thoát.

Ngữ ấy, thoát pháp chướng ngại. Nghĩa ấy, được vô ngại giải thoát.

Ngữ ấy, xưng nói Tam Bảo vô lượng công đức. Nghĩa ấy, Tam Bảo công đức ly dục pháp tánh đồng tướng vô vi.

Ngữ ấy, nói từ phát tâm đến ngồi Đạo Tràng, tu tập trang nghiêm bồ đề công đức. Nghĩa ấy, dung một niệm huệ giác liễu tất cả pháp.

Tóm lại, có thể nói tám vạn bốn ngàn pháp trụ, đây gọi là ngữ. Biết các văn tự chẳng thể tuyên nói, đây gọi là nghĩa. Đây gọi là Bồ Tát y nghĩa chẳng y ngữ.

Thế nào là Bồ Tát y trí chẳng y thức?

Thức ấy có bốn xứ thức ở: Thức ở nơi sắc, thức ở nơi thọ, thức ở nơi tưởng và thức ở nơi hành.

Người trí biết rõ tánh bốn thức không có chỗ ở.

Người thức, hoặc biết địa đại, thuỷ đại, hoả đại và phong đại.

Người trí biết ở tứ đại pháp tánh không có khác.

Người thức, nhãn thức trụ nơi sắc, nhĩ thức trụ nơi thanh, tỷ thức trụ nơi hương, thiệt thức trụ nơi vị, thân thức trụ nơi xúc và ý thức trụ nơi pháp.

Người trí, nội tánh tịch diệt còn ngoại tánh thì vô sở hành, biết rõ các pháp không có ức tưởng.

Người thức, duyên lấy cảnh sở duyên để tư duy phân biệt.

Người trí, tâm không có cảnh sở duyên chẳng lấy tướng mạo, ở trong các pháp không có mong cầu.

Người thức, hành pháp hữu vi.

Người trí, biết pháp vô vi thức không có sở hành, vô vi pháp tánh không có thức tri. Thức ấy, tướng sanh trụ diệt. Trí ấy, không có tướng sanh trụ diệt. Đây gọi là Bồ Tát y trí chẳng y thức.

Thưa Tôn Giả! Thế nào là Bồ Tát y Kinh liễu nghĩa mà chẳng y Kinh chẳng liễu nghĩa?

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, phân biệt tu tập đạo.

Kinh liễu nghĩa ấy, chẳng phân biệt quả.

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, chỗ làm hành nghiệp tin có quả báo.

Kinh liễu nghĩa ấy, hết các phiền não.

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, quở các phiền não.

Kinh liễu nghĩa ấy, tán thán pháp bạch tịnh.

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, nói sanh tử khổ não.

Kinh liễu nghĩa ấy, sanh tử và Niết Bàn một tướng không có hai.

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, khen nói các thứ trang nghiêm văn tự.

Kinh liễu nghĩa ấy, nói Kinh thậm thâm khó thọ trì khó hiểu tỏ.

Kinh bất liễu nghĩa ấy, phần nhiều vì chúng sanh nói tướng tội tướng phước, khiến người nghe pháp sanh lòng lo sợ hay ưa thích.

Kinh liễu nghĩa ấy, phàm pháp được nói làm cho người nghe tâm họ được điều phục.

Kinh bất liễu nghĩa ấy, hoặc diễn nói ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, tác giả, thọ giả, các thứ văn từ, các pháp không có thí giả, thọ giả mà vì chúng sanh nói có thí có thọ.

Kinh liễu nghĩa ấy, nói không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, không có ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, không có tác giả, thọ giả, thường nói vô lượng môn giải thoát.

Đây gọi là Bồ Tát y Kinh liễu nghĩa mà chẳng y kinh chẳng liễu nghĩa.

Thưa Tôn Giả! Thế nào là Bồ Tát y pháp mà chẳng y nơi người?

Người ấy, nhiếp lấy nhân, kiến, tác giả, thọ giả. Pháp ấy, hiểu không có nhân, kiến, thọ giả, tác giả. Người ấy, phàm phu, người lành, tín hành nhân, pháp hành nhân, bát nhân, người Tu Đà Hoàn, người Tư Đà Hàm, người A Na Hàm, bậc A La Hán, bậc Bích Chi Phật, bậc Bồ Tát.

Một người xuất thế thì làm cho nhiều người lợi ích nhiều người thọ lạc, thương xót chúng sanh phát lòng đại bi, ở trong nhân thiên có nhiều tư nhuận, đó là Đức Phật Thế Tôn. Các điều như vậy gọi là Đức Phật y theo thế Tục Đế vì giáo hoá chúng sanh nên diễn nói pháp như vậy.

Nếu có người nhiếp lấy sự thấy biết như vậy thì gọi là y nhân. Đức Như Lai vì giáo hoá người nhiếp nhân kiến ấy nên nói phải y nơi pháp mà chẳng y nơi nhân.

Pháp tánh ấy, chẳng biến chẳng đổi, không tác không chẳng tác, không trụ không chẳng trụ, tất cả bình đẳng. Bình đẳng cũng bình đẳng, mà bất bình đẳng ấy cũng bình đẳng.

Không có nhân không có duyên được chánh quyết định, nơi tất cả pháp không có diệt không có dị, tánh tướng vô ngại dường như hư không, đây gọi là pháp tánh.

Nếu người y chỉ pháp tánh ấy thì trọn không hề rơi lìa pháp nhất tướng. Người nhập môn ấy thấy tất cả pháp đồng nhất pháp tánh. Vì vậy nên nói Bồ Tát y nơi tất cả pháp mà chẳng y nơi nhân. Đây gọi là Bồ Tát Tứ y vô tận vậy.

Thưa Tôn Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu tập trợ đạo công đức trí huệ cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Bồ Tát tu tập công đức vô tận?

Bồ Tát nếu bố thí trì giới tâm chỗ tu tập phát hành từ bi, tự có phạm tội thì phát lộ sám hối cũng thay thế chúng sanh mà phát lộ sám hối, đã làm sám hối rồi kế nên tuỳ hỉ.

Bồ Tát hạnh tuỳ hỉ thế nào?

Tất cả chúng sanh, bậc hữu học vô học, bậc Bích Chi Phật, Bồ Tát phát tâm người đã tu tập, bậc kiên trụ bất thối, bậc nhất sanh bổ xứ, các người như vậy trong tam thế tích tập công đức, nên dùng nhất tâm tuỳ họ hoan hỷ.

Lại ở nơi Tam Thế Chư Phật Thế Tôn có bao nhiêu thiện căn đều nhất tâm tuỳ hỉ. Bồ Tát tuỳ hỉ này cũng sẽ thành tựu tất cả công đức như vậy. Tuỳ hỉ công đức xong rồi, kế nên khuyến thỉnh mười phương Thế Giới tất cả Chư Phật mới thành đạo vô thượng bồ đề ấy chuyển pháp luân. Chư Phật Thế Tôn muốn nhập Niết Bàn thì thỉnh ở lâu trong đời.

Lại cũng thỉnh tất cả Bồ Tát Thánh Nhân thường vì chúng sanh mà trụ thế thuyết pháp. Những thiện căn như vậy cùng tưởng như thiện căn, tất cả đều hồi hướng vô thượng bồ đề. Bồ Tát ấy, nói với người chưa phát tâm thì khuyên họ phát tâm.

Với người đã phát tâm thì vì họ mà nói các Ba la mật.

Với kẻ bần cùng thì dùng tài vật cứu nhiếp họ.

Với kẻ bịnh tật thì cho thuốc và tuỳ thời nghi chăm sóc.

Với kẻ không thế lực thì khuyên họ nhẫn nhục.

Với kẻ phạm cấm giới thì khuyên họ chớ giấu che.

Với kẻ đã che giấu tội thì khuyên họ phát lộ.  Nơi Chư Phật hiện tại và đã Niết Bàn đều cung kính cúng dường.

Kính trọng bậc Sư Trưởng coi như Phật Thế Tôn.

Lúc có cầu chánh pháp thì dầu mất mạng cũng chẳng biếng nhác. Nơi pháp bảo ấy tưởng như báu vô giá. Nơi người thuyết pháp tưởng như Phật. Vì nghe pháp dầu xa quá trăm do tuần mà tâm lực mạnh mẽ không có ý tưởng mệt nhọc.

Khi diễn giảng chánh pháp không vì lợi dưỡng. Với cha mẹ thì biết ơn báo ơn, cúng dường hầu hạ không hề nhàm hối. Các công đức được làm không hề nhàm đủ. Giữ gìn thân khẩu ý không để có siểm khúc. Công đức xây dựng Phật Pháp bằng với phước của Phạm Thiên khuyến thỉnh Phật.

Tại sao?

Vì đầy đủ các thứ tướng tốt mở cửa đại thí vậy, vì được tuỳ hình hảo tu các thiện căn vậy, vì trang nghiêm thân không có kiêu mạn vậy, vì trang nghiêm khẩu không có lỗi nơi miệng vậy, vì trang nghiêm ý không có trụ nơi pháp vậy, vì trang nghiêm Phật Độ thần thông giáo hoá vậy, vì trang nghiêm pháp rời lìa các dục vậy.

Vì trang nghiêm Tăng vì không có lưỡng thiệt ác khẩu phá hoại người vậy, vì thuyết pháp hoan hỷ xưng tán thiện pháp vậy, vì công nghiệp được làm chẳng luống uổng vậy, vì lìa phú cái nên đến nghe pháp vậy, vì trang nghiêm cội Bồ Đề nên đem vườn rừng cúng dâng cho Phật vậy, vì trang nghiêm Đạo Tràng mà thành tựu tất cả thiện căn vậy.

Vì xuất sanh thanh tịnh chẳng bị tất cả phiền não nhiễm ô vậy. Được bảo thủ vì có thể xả bỏ tất cả vật được coi trọng vậy. Được vô tận vì đem vô lượng bảo tàng mà bố thí vậy. Người thấy vui mừng vì thường hoà vui vậy. Thể được pháp tánh vì tâm huệ quang minh chiếu khắp chúng sanh vậy.

Trang nghiêm quang minh vì chẳng khinh kẻ chưa học mà khéo dìu dắt họ vậy. Đời đời thường thanh tịnh vì trì giới công đức đều thành tựu vậy. Ở trong thai thanh tịnh vì chẳng thấy tội người vậy. Sanh Nhân Thiên vì thanh tịnh hành Thập Thiện vậy.

Huệ sáng độc bộ vì người được giáo hoá chẳng sanh phân biệt vậy. Nơi pháp được tự tại vì pháp được mến trọng không lẫn tiếc vậy.

Trong thế gian riêng mình thù thắng vì cứu cánh thanh tịnh vậy. Vi diệu giải thoát vì chẳng cầu ít phần pháp hành vậy. Hành tất cả công đức vì chẳng bỏ nhất thiết trí tâm vậy. Thất tài đầy đủ vì lấy tính làm căn bổn vậy. Nhiếp thủ chánh pháp vì chẳng tiếc thân mạng vậy.

Chẳng dối phỉnh thế gian vì đủ bổn nguyện vậy. Đầy đủ tất cả Phật Pháp vì các thiện căn mỗi mỗi môn đều đã hành cả vậy. Đây là lược nói Bồ Tát công đức. Nếu nói rộng ra thì dầu trải qua một kiếp hay hơn một kiếp nói cũng chẳng hết được.

Thưa Tôn Giả! Thế nào là Bồ Tát trí huệ vô tận?

Hoặc mỗi mỗi nhân nghe trí huệ, hoặc mỗi mỗi duyên được trí huệ.

Thế nào là nhân?

Nội tăng thượng dục.

Thế nào là duyên?

Ngoại cần cầu pháp.

Nhân và duyên như vậy y nơi Phật trí huệ, chẳng phải y nơi trí huệ của Thanh Văn, Duyên Giác. Bồ Tát ấy thân cận trí giả tâm không có kiêu mạn. Ở nơi người lòng tưởng như Phật. Các trí giả ấy biết người học pháp tâm đã hoà nhu nên vì họ nói trí huệ dạy họ y chỉ, tuỳ theo căn chánh khí mà nói pháp vô nhiễm. Người nghe pháp ở trong ấy siêng tu hành tụ tập trợ pháp tinh tiến, đây là trí huệ.

Thế nào là Bồ Tát trợ pháp tinh tiến?

Bồ Tát không có mong cầu bỏ tuyệt sự vụ bớt ít nói chuyện. Nơi các thứ sở dục tâm thường biết đủ. Đầu hôm cuối đêm bớt ngủ nghỉ.

Những pháp nghĩa được nghe hay khéo tư duy suy lường phân biệt, luôn cầu thiện pháp tâm không ái trược, trừ các ấm cái không bị chướng che, những lỗi lầm đã phạm liền hay trừ diệt, chánh hạnh kiên cố xu hướng ngưỡng mộ, tôn kính pháp hành đủ tinh tiến hành.

Cầu pháp chẳng trể như cứu đầu cháy, hành vô ngã hành chẳng trì hoãn, chẳng bỏ bổn hành, tâm tăng thượng hành, quở chúng ồn náo, thường thích riêng mình hướng A Lan Nhã để tư duy hành, Thánh chủng tri túc hành, bất động Đầu Đà hành, ưa thích pháp hành, chẳng tư duy thế gian ngôn ngữ hành, cầu xuất thế gian pháp hành.

Chẳng mất chánh niệm hành, phát xuất các pháp nghĩa hành, chân chánh đạo hành, biết duyên tổng trì hành, tàm quí trang nghiêm hành, trí huệ vững chắc hành, trừ lưới vô minh kiết trói buộc mắt huệ thanh tịnh hành, khéo giác liễu hành, rộng giác liễu hành.

Chẳng giảm diệt giác liễu hành, phân tích giác hành, biết hiện tại hành, chẳng theo công đức người khác hành, chẳng tự thị công đức hành, tán thán các công đức người khác hành, khéo tu các nghiệp hành, nhân quả bất động hạnh biết thanh tịnh nghiệp hành. Đây gọi là Bồ Tát trợ pháp tinh tiến.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần