Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Ba Mươi - Phẩm So Sánh Công đức - Phần Sáu Mươi Tám
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
HỘI ĐẦU
PHẨM BA MƯƠI
PHẨM SO SÁNH CÔNG ĐỨC
PHẦN SÁU MƯƠI TÁM
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề, tuyên thuyết tinh tấn Ba la mật đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc thường, hoặc vô thường. Chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường.
Vì sao?
Vì trí nhất thiết và tự tánh của trí nhất thiết là không. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tự tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa.
Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có trí nhất thiết v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc, hoặc khổ.
Vì sao?
Vì trí nhất thiết và tự tánh của trí nhất thiết là không. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tự tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa.
Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có trí nhất thiết v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc ngã, hoặc vô ngã. Chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Vì sao?
Vì trí nhất thiết và tự tánh của trí nhất thiết là không. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tự tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tự tánh.
Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó còn không có trí nhất thiết v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán trí nhất thiết hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
Vì sao?
Vì trí nhất thiết và tự tánh của trí nhất thiết là không. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Tự tánh của trí nhất thiết ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ấy cũng chẳng phải là tự tánh.
Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có trí nhất thiết v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Ba la mật đa một cách chân chánh.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề, tuyên thuyết tinh tấn Ba la mật đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc thường, hoặc vô thường. Chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc thường, hoặc vô thường.
Vì sao?
Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không.
Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa.
Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có tất cả pháp môn Đà La Ni v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc lạc, hoặc khổ.
Vì sao?
Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không.
Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa.
Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có tất cả pháp môn Đà La Ni v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc ngã, hoặc vô ngã. Chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Vì sao?
Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không.
Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa.
Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó còn không có tất cả pháp môn Đà La Ni v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
Vì sao?
Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không.
Tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa.
Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có tất cả pháp môn Đà La Ni v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Ba la mật đa một cách chân chánh.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề, tuyên thuyết tinh tấn Ba la mật đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc thường, hoặc vô thường. Chẳng nên quán Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả hoặc thường, hoặc vô thường.
Vì sao?
Vì Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả và tự tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả là không. Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả và tự tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả là không.
Tự tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa.
Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả hoặc lạc, hoặc khổ.
Vì sao?
Vì Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả và tự tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả là không. Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả và tự tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả là không.
Tự tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa.
Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc ngã, hoặc vô ngã. Chẳng nên quán Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Vì sao?
Vì Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả và tự tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả là không. Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả và tự tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả là không.
Tự tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa.
Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó còn không có Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
Vì sao?
Vì Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả và tự tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả là không. Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả và tự tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả là không.
Tự tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa.
Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Ba la mật đa một cách chân chánh.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề, tuyên thuyết tinh tấn Ba la mật đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả quả vị Độc giác hoặc thường, hoặc vô thường.
Vì sao?
Vì tất cả quả vị Độc giác và tự tánh của tất cả quả vị Độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị Độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, tất cả quả vị Độc giác chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có tất cả quả vị Độc giác có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả quả vị Độc giác hoặc lạc, hoặc khổ.
Vì sao?
Vì tất cả quả vị Độc giác và tự tánh của tất cả quả vị Độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị Độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, tất cả quả vị Độc giác chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có tất cả quả vị Độc giác có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả quả vị Độc giác hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Vì sao?
Vì tất cả quả vị Độc giác và tự tánh của tất cả quả vị Độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị Độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, tất cả quả vị Độc giác chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó còn không có tất cả quả vị Độc giác có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả quả vị Độc giác hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
Vì sao?
Vì tất cả quả vị Độc giác và tự tánh của tất cả quả vị Độc giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị Độc giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, tất cả quả vị Độc giác chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có tất cả quả vị Độc giác có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Ba la mật đa một cách chân chánh.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề, tuyên thuyết tinh tấn Ba la mật đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc thường, hoặc vô thường.
Vì sao?
Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hạnh Đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hạnh Đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, tất cả hạnh Đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có tất cả hạnh Đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc lạc, hoặc khổ.
Vì sao?
Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hạnh Đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hạnh Đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, tất cả hạnh Đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có tất cả hạnh Đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Vì sao?
Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hạnh Đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hạnh Đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, tất cả hạnh Đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó còn không có tất cả hạnh Đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
Vì sao?
Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát và tự tánh của tất cả hạnh Đại Bồ Tát là không. Tự tánh của tất cả hạnh Đại Bồ Tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, tất cả hạnh Đại Bồ Tát chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có tất cả hạnh Đại Bồ Tát có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Ba la mật đa một cách chân chánh.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề, tuyên thuyết tinh tấn Ba la mật đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc thường, hoặc vô thường.
Vì sao?
Vì quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc lạc, hoặc khổ.
Vì sao?
Vì quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Vì sao?
Vì quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó còn không có quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tinh tấn Ba la mật đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
Vì sao?
Vì quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba la mật đa. Đối với tinh tấn Ba la mật đa này, quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn Ba la mật đa một cách chân chánh.
Khi ấy, Trời Đế Thích lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… nói an nhẫn Ba la mật đa vô sở đắc như thế nào mà gọi là nói an nhẫn Ba la mật đa một cách chân chánh.
Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề, tuyên thuyết an nhẫn Ba la mật đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán sắc hoặc thường, hoặc vô thường. Chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường, hoặc vô thường.
Vì sao?
Vì sắc và tự tánh của sắc là không. Thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắc ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba la mật đa.
Đối với an nhẫn Ba la mật đa này, sắc chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có sắc v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán sắc hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc lạc, hoặc khổ.
Vì sao?
Vì sắc và tự tánh của sắc là không. Thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắc ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba la mật đa.
Đối với an nhẫn Ba la mật đa này, sắc chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó còn không có sắc v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã. Chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Vì sao?
Vì sắc và tự tánh của sắc là không. Thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắc ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba la mật đa.
Đối với an nhẫn Ba la mật đa này, sắc chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó còn không có sắc v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
Vì sao?
Vì sắc và tự tánh của sắc là không. Thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắc ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba la mật đa.
Đối với an nhẫn Ba la mật đa này, sắc chẳng thể nắm bắt được, thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có sắc v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba la mật đa một cách chân chánh.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề, tuyên thuyết an nhẫn Ba la mật đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán nhãn xứ hoặc thường, hoặc vô thường. Chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường, hoặc vô thường.
Vì sao?
Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không. Tự tánh của nhãn xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba la mật đa.
Đối với an nhẫn Ba la mật đa này, nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có nhãn xứ v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán nhãn xứ hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc lạc, hoặc khổ.
Vì sao?
Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không. Tự tánh của nhãn xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba la mật đa.
Đối với an nhẫn Ba la mật đa này, nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có nhãn xứ v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán nhãn xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Vì sao?
Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không. Tự tánh của nhãn xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba la mật đa.
Đối với an nhẫn Ba la mật đa này, nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó còn không có nhãn xứ v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán nhãn xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
Vì sao?
Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không. Tự tánh của nhãn xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba la mật đa.
Đối với an nhẫn Ba la mật đa này, nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có nhãn xứ v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba la mật đa một cách chân chánh.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề, tuyên thuyết an nhẫn Ba la mật đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán sắc xứ hoặc thường, hoặc vô thường. Chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường, hoặc vô thường.
Vì sao?
Vì sắc xứ và tự tánh của sắc xứ là không. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không. Tự tánh của sắc xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba la mật đa.
Đối với an nhẫn Ba la mật đa này, sắc xứ chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có sắc xứ v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán sắc xứ hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc lạc, hoặc khổ.
Vì sao?
Vì sắc xứ và tự tánh của sắc xứ là không. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không. Tự tánh của sắc xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba la mật đa.
Đối với an nhẫn Ba la mật đa này, sắc xứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có sắc xứ v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán sắc xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Vì sao?
Vì sắc xứ và tự tánh của sắc xứ là không. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không. Tự tánh của sắc xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba la mật đa.
Đối với an nhẫn Ba la mật đa này, sắc xứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó còn không có sắc xứ v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu an nhẫn Ba la mật đa, chẳng nên quán sắc xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.
Vì sao?
Vì sắc xứ và tự tánh của sắc xứ là không. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không. Tự tánh của sắc xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh. Tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là an nhẫn Ba la mật đa.
Đối với an nhẫn Ba la mật đa này, sắc xứ chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được.
Vì sao?
Vì trong đó, còn không có sắc xứ v.v… có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia. Nếu ngươi có khả năng tu an nhẫn như thế là tu an nhẫn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… ấy nói những điều đó là tuyên thuyết an nhẫn Ba la mật đa một cách chân chánh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Tập Hư Không Tạng Bồ Tát Sở Vấn - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Thừa đại Bi Phân đà Lợi - Phẩm Mười Bốn - Phẩm Ba ức Thiếu đồng Tử được Thọ Ký
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Bốn Mươi Bảy - Phẩm Lưỡng Bất Hòa Hiệp Quá
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Hoan Hỷ
Phật Thuyết Kinh Tối Thượng Căn Bản đại Lạc Kim Cang Bất Không Tam Muội đại Giáo Vương - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Anh Lạc Hiện Tại Báo - Phẩm Mười Ba - Phẩm Thành Tựu đạo Quả