Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Ba Mươi Bốn - Phẩm Khó Tin Hiểu - phần bốn Mươi Sáu

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM BA MƯƠI BỐN

PHẨM KHÓ TIN HIỂU  

PHẦN BỐN MƯƠI SÁU  

Vì sao?

Vì pháp không không thanh tịnh ấy cùng với pháp không lớn thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không lớn thanh tịnh nên pháp không thắng nghĩa thanh tịnh. Vì pháp không thắng nghĩa thanh tịnh nên pháp không lớn thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không lớn thanh tịnh ấy cùng với pháp không thắng nghĩa thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không thắng nghĩa thanh tịnh nên pháp không hữu vi thanh tịnh. Vì pháp không hữu vi thanh tịnh nên pháp không thắng nghĩa thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không thắng nghĩa thanh tịnh ấy cùng với pháp không hữu vi thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không hữu vi thanh tịnh nên pháp không vô vi thanh tịnh. Vì pháp không vô vi thanh tịnh nên pháp không hữu vi thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không hữu vi thanh tịnh ấy cùng với pháp không vô vi thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không vô vi thanh tịnh nên pháp không rốt ráo thanh tịnh. Vì pháp không rốt ráo thanh tịnh nên pháp không vô vi thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không vô vi thanh tịnh ấy cùng với pháp không rốt ráo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không rốt ráo thanh tịnh nên pháp không không biên giới thanh tịnh. Vì pháp không không biên giới thanh tịnh nên pháp không rốt ráo thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không rốt ráo thanh tịnh ấy cùng với pháp không không biên giới thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không không biên giới thanh tịnh nên pháp không tản mạn thanh tịnh. Vì pháp không tản mạn thanh tịnh nên pháp không không biên giới thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không không biên giới thanh tịnh ấy cùng với pháp không tản mạn thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không tản mạn thanh tịnh nên pháp không không đổi khác thanh tịnh. Vì pháp không không đổi khác thanh tịnh nên pháp không tản mạn thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không tản mạn thanh tịnh ấy cùng với pháp không không đổi khác thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không không đổi khác thanh tịnh nên pháp không bổn tánh thanh tịnh. Vì pháp không bổn tánh thanh tịnh nên pháp không không đổi khác thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không không đổi khác thanh tịnh ấy cùng với pháp không bổn tánh thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không bổn tánh thanh tịnh nên pháp không tự tướng thanh tịnh. Vì pháp không tự tướng thanh tịnh nên pháp không bổn tánh thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không bổn tánh thanh tịnh ấy cùng với pháp không tự tướng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không tự tướng thanh tịnh nên pháp không cộng tướng thanh tịnh. Vì pháp không cộng tướng thanh tịnh nên pháp không tự tướng thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không tự tướng thanh tịnh ấy cùng với pháp không cộng tướng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không cộng tướng thanh tịnh nên pháp không tất cả pháp thanh tịnh. Vì pháp không tất cả pháp thanh tịnh nên pháp không cộng tướng thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không cộng tướng thanh tịnh ấy cùng với pháp không tất cả pháp thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không tất cả pháp thanh tịnh nên pháp không chẳng thể nắm bắt được thanh tịnh. Vì pháp không chẳng thể nắm bắt được thanh tịnh nên pháp không tất cả pháp thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không tất cả pháp thanh tịnh ấy cùng với pháp không chẳng thể nắm bắt được thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không chẳng thể nắm bắt được thanh tịnh nên pháp không không tánh thanh tịnh. Vì pháp không không tánh thanh tịnh nên pháp không chẳng thể nắm bắt được thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không chẳng thể nắm bắt được thanh tịnh ấy cùng với pháp không không tánh thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không không tánh thanh tịnh nên pháp không tự tánh thanh tịnh. Vì pháp không tự tánh thanh tịnh nên pháp không không tánh thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không không tánh thanh tịnh ấy cùng với pháp không tự tánh thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không tự tánh thanh tịnh nên pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh. Vì pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh nên pháp không tự tánh thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không tự tánh thanh tịnh ấy cùng với pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Vì pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh nên chân như thanh tịnh. Vì chân như thanh tịnh nên pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không không tánh tự tánh thanh tịnh ấy cùng với chân như thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì chân như thanh tịnh nên pháp giới thanh tịnh. Vì pháp giới thanh tịnh nên chân như thanh tịnh.

Vì sao?

Vì chân như thanh tịnh ấy cùng với pháp giới thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp giới thanh tịnh nên pháp tánh thanh tịnh. Vì pháp tánh thanh tịnh nên pháp giới thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp giới thanh tịnh ấy cùng với pháp tánh thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp tánh thanh tịnh nên tánh chẳng hư vọng thanh tịnh. Vì tánh chẳng hư vọng thanh tịnh nên pháp tánh thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp tánh thanh tịnh ấy cùng với tánh chẳng hư vọng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tánh chẳng hư vọng thanh tịnh nên tánh chẳng đổi khác thanh tịnh. Vì tánh chẳng đổi khác thanh tịnh nên tánh chẳng hư vọng thanh tịnh.

Vì sao?

Vì tánh chẳng hư vọng thanh tịnh ấy cùng với tánh chẳng đổi khác thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tánh chẳng đổi khác thanh tịnh nên tánh bình đẳng thanh tịnh. Vì tánh bình đẳng thanh tịnh nên tánh chẳng đổi khác thanh tịnh.

Vì sao?

Vì tánh chẳng đổi khác thanh tịnh ấy cùng với tánh bình đẳng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tánh bình đẳng thanh tịnh nên tánh ly sanh thanh tịnh. Vì tánh ly sanh thanh tịnh nên tánh bình đẳng thanh tịnh.

Vì sao?

Vì tánh bình đẳng thanh tịnh ấy cùng với tánh ly sanh thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tánh ly sanh thanh tịnh nên định pháp thanh tịnh. Vì định pháp thanh tịnh nên tánh ly sanh thanh tịnh.

Vì sao?

Vì tánh ly sanh thanh tịnh ấy cùng với định pháp thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì định pháp thanh tịnh nên trụ pháp thanh tịnh. Vì trụ pháp thanh tịnh nên định pháp thanh tịnh.

Vì sao?

Vì định pháp thanh tịnh ấy cùng với trụ pháp thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trụ pháp thanh tịnh nên thật tế thanh tịnh. Vì thật tế thanh tịnh nên trụ pháp thanh tịnh.

Vì sao?

Vì trụ pháp thanh tịnh ấy cùng với thật tế thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì thật tế thanh tịnh nên cảnh giới hư không thanh tịnh. Vì cảnh giới hư không thanh tịnh nên thật tế thanh tịnh.

Vì sao?

Vì thật tế thanh tịnh ấy cùng với cảnh giới hư không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì cảnh giới hư không thanh tịnh nên cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh. Vì cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh nên cảnh giới hư không thanh tịnh.

Vì sao?

Vì cảnh giới hư không thanh tịnh ấy cùng với cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Vì cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh nên Thánh đế khổ thanh tịnh. Vì Thánh đế khổ thanh tịnh nên cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh.

Vì sao?

Vì cảnh giới bất tư nghì thanh tịnh ấy cùng với Thánh đế khổ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Thánh đế khổ thanh tịnh nên Thánh đế tập thanh tịnh. Vì Thánh đế tập thanh tịnh nên Thánh đế khổ thanh tịnh.

Vì sao?

Vì Thánh đế khổ thanh tịnh ấy cùng với Thánh đế tập thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Thánh đế tập thanh tịnh nên Thánh đế diệt thanh tịnh. Vì Thánh đế diệt thanh tịnh nên Thánh đế tập thanh tịnh.

Vì sao?

Vì Thánh đế tập thanh tịnh ấy cùng với Thánh đế diệt thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Thánh đế diệt thanh tịnh nên Thánh đế đạo thanh tịnh. Vì Thánh đế đạo thanh tịnh nên Thánh đế diệt thanh tịnh.

Vì sao?

Vì Thánh đế diệt thanh tịnh ấy cùng với Thánh đế đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Thánh đế đạo thanh tịnh nên bốn tịnh lự thanh tịnh. Vì bốn tịnh lự thanh tịnh nên Thánh đế đạo thanh tịnh.

Vì sao?

Vì Thánh đế đạo thanh tịnh ấy cùng với bốn tịnh lự thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì bốn tịnh lự thanh tịnh nên bốn vô lượng thanh tịnh. Vì bốn vô lượng thanh tịnh nên bốn tịnh lự thanh tịnh.

Vì sao?

Vì bốn tịnh lự thanh tịnh ấy cùng với bốn vô lượng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì bốn vô lượng thanh tịnh nên bốn định vô sắc thanh tịnh. Vì bốn định vô sắc thanh tịnh nên bốn vô lượng thanh tịnh.

Vì sao?

Vì bốn vô lượng thanh tịnh ấy cùng với bốn định vô sắc thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì bốn định vô sắc thanh tịnh nên tám giải thoát thanh tịnh. Vì tám giải thoát thanh tịnh nên bốn định vô sắc thanh tịnh.

Vì sao?

Vì Bốn Định vô sắc thanh tịnh ấy cùng với tám giải thoát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tám giải thoát thanh tịnh nên tám thắng xứ thanh tịnh. Vì tám thắng xứ thanh tịnh nên tám giải thoát thanh tịnh.

Vì sao?

Vì tám giải thoát thanh tịnh ấy cùng với tám thắng xứ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tám thắng xứ thanh tịnh nên chín định thứ đệ thanh tịnh. Vì chín định thứ đệ thanh tịnh nên tám thắng xứ thanh tịnh.

Vì sao?

Vì tám thắng xứ thanh tịnh ấy cùng với chín định thứ đệ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì chín định thứ đệ thanh tịnh nên mười biến xứ thanh tịnh. Vì mười biến xứ thanh tịnh nên chín định thứ đệ thanh tịnh.

Vì sao?

Vì chín định thứ đệ thanh tịnh ấy cùng với mười biến xứ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì mười biến xứ thanh tịnh nên bốn niệm trụ thanh tịnh. Vì bốn niệm trụ thanh tịnh nên mười biến xứ thanh tịnh.

Vì sao?

Vì mười biến xứ thanh tịnh ấy cùng với bốn niệm trụ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì bốn niệm trụ thanh tịnh nên bốn chánh đoạn thanh tịnh. Vì bốn chánh đoạn thanh tịnh nên bốn niệm trụ thanh tịnh.

Vì sao?

Vì bốn niệm trụ thanh tịnh ấy cùng với bốn chánh đoạn thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì bốn chánh đoạn thanh tịnh nên bốn thần túc thanh tịnh. Vì bốn thần túc thanh tịnh nên bốn chánh đoạn thanh tịnh.

Vì sao?

Vì bốn chánh đoạn thanh tịnh ấy cùng với bốn thần túc thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì bốn thần túc thanh tịnh nên năm căn thanh tịnh. Vì năm căn thanh tịnh nên bốn thần túc thanh tịnh.

Vì sao?

Vì bốn thần túc thanh tịnh ấy cùng với năm căn thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì năm căn thanh tịnh nên năm lực thanh tịnh. Vì năm lực thanh tịnh nên năm căn thanh tịnh.

Vì sao?

Vì năm căn thanh tịnh ấy cùng với năm lực thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì năm lực thanh tịnh nên bảy chi Đẳng Giác thanh tịnh. Vì bảy chi Đẳng Giác thanh tịnh nên năm lực thanh tịnh.

Vì sao?

Vì Năm Lực thanh tịnh ấy cùng với bảy chi Đẳng Giác thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì bảy chi Đẳng Giác thanh tịnh nên tám chi Thánh đạo thanh tịnh. Vì tám chi Thánh đạo thanh tịnh nên bảy chi Đẳng Giác thanh tịnh.

Vì sao?

Vì bảy chi Đẳng Giác thanh tịnh ấy cùng với tám chi Thánh đạo thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tám chi Thánh đạo thanh tịnh nên pháp môn giải thoát không thanh tịnh. Vì pháp môn giải thoát không thanh tịnh nên tám chi Thánh đạo thanh tịnh.

Vì sao?

Vì tám chi Thánh đạo thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát không thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp môn giải thoát không thanh tịnh nên pháp môn giải thoát vô tướng thanh tịnh. Vì pháp môn giải thoát vô tướng thanh tịnh nên pháp môn giải thoát không thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp môn giải thoát không thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô tướng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp môn giải thoát vô tướng thanh tịnh nên pháp môn giải thoát vô nguyện thanh tịnh. Vì pháp môn giải thoát vô nguyện thanh tịnh nên pháp môn giải thoát vô tướng thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp môn giải thoát vô tướng thanh tịnh ấy cùng với pháp môn giải thoát vô nguyện thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp môn giải thoát vô nguyện thanh tịnh nên mười địa Bồ Tát thanh tịnh. Vì mười địa Bồ Tát thanh tịnh nên pháp môn giải thoát vô nguyện thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp môn giải thoát vô nguyện thanh tịnh ấy cùng với mười địa Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì mười địa Bồ Tát thanh tịnh nên năm loại mắt thanh tịnh. Vì năm loại mắt thanh tịnh nên mười địa Bồ Tát thanh tịnh.

Vì sao?

Vì mười địa Bồ Tát thanh tịnh ấy cùng với năm loại mắt thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì năm loại mắt thanh tịnh nên sáu phép Thần Thông thanh tịnh. Vì sáu phép Thần Thông thanh tịnh nên năm loại mắt thanh tịnh.

Vì sao?

Vì năm loại mắt thanh tịnh ấy cùng với sáu phép thần thông thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì sáu phép thần thông thanh tịnh nên mười lực Phật thanh tịnh. Vì mười lực Phật thanh tịnh nên sáu phép thần thông thanh tịnh.

Vì sao?

Vì sáu phép Thần Thông thanh tịnh ấy cùng với mười lực Phật thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì mười lực Phật thanh tịnh nên bốn điều không sợ thanh tịnh. Vì bốn điều không sợ thanh tịnh nên mười lực Phật thanh tịnh.

Vì sao?

Vì mười lực Phật thanh tịnh ấy cùng với bốn điều không sợ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì bốn điều không sợ thanh tịnh nên bốn sự hiểu biết thông suốt thanh tịnh. Vì bốn sự hiểu biết thông suốt thanh tịnh nên bốn điều không sợ thanh tịnh.

Vì sao?

Vì bốn điều không sợ thanh tịnh ấy cùng với bốn sự hiểu biết thông suốt thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì bốn sự hiểu biết thông suốt thanh tịnh nên đại từ thanh tịnh. Vì đại từ thanh tịnh nên bốn sự hiểu biết thông suốt thanh tịnh.

Vì sao?

Vì bốn sự hiểu biết thông suốt thanh tịnh ấy cùng với đại từ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì đại từ thanh tịnh nên đại bi thanh tịnh. Vì đại bi thanh tịnh nên đại từ thanh tịnh.

Vì sao?

Vì đại từ thanh tịnh ấy cùng với đại bi thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì đại bi thanh tịnh nên đại hỷ thanh tịnh. Vì đại hỷ thanh tịnh nên đại bi thanh tịnh.

Vì sao?

Vì đại bi thanh tịnh ấy cùng với đại hỷ thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì đại hỷ thanh tịnh nên đại xả thanh tịnh. Vì đại xả thanh tịnh nên đại hỷ thanh tịnh.

Vì sao?

Vì đại hỷ thanh tịnh ấy cùng với đại xả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì đại xả thanh tịnh nên mười tám Pháp Phật bất cộng thanh tịnh. Vì mười tám Pháp Phật bất cộng thanh tịnh nên đại xả thanh tịnh.

Vì sao?

Vì đại xả thanh tịnh ấy cùng với mười tám Pháp Phật bất cộng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì mười tám Pháp Phật bất cộng thanh tịnh nên pháp không quên mất thanh tịnh. Vì pháp không quên mất thanh tịnh nên mười tám Pháp Phật bất cộng thanh tịnh.

Vì sao?

Vì mười tám Pháp Phật bất cộng thanh tịnh ấy cùng với pháp không quên mất thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì pháp không quên mất thanh tịnh nên tánh luôn luôn xả thanh tịnh. Vì tánh luôn luôn xả thanh tịnh nên pháp không quên mất thanh tịnh.

Vì sao?

Vì pháp không quên mất thanh tịnh ấy cùng với tánh luôn luôn xả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Vì tánh luôn luôn xả thanh tịnh nên trí nhất thiết thanh tịnh. Vì trí nhất thiết thanh tịnh nên tánh luôn luôn xả thanh tịnh.

Vì sao?

Vì tánh luôn luôn xả thanh tịnh ấy cùng với trí nhất thiết thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí nhất thiết thanh tịnh nên trí đạo tướng thanh tịnh. Vì trí đạo tướng thanh tịnh nên trí nhất thiết thanh tịnh.

Vì sao?

Vì trí nhất thiết thanh tịnh ấy cùng với trí đạo tướng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì trí đạo tướng thanh tịnh nên trí nhất thiết tướng thanh tịnh. Vì trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên trí đạo tướng thanh tịnh.

Vì sao?

Vì trí đạo tướng thanh tịnh ấy cùng với trí nhất thiết tướng thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Vì trí nhất thiết tướng thanh tịnh nên tất cả pháp môn Đà La Ni thanh tịnh. Vì tất cả pháp môn Đà La Ni thanh tịnh nên trí nhất thiết tướng thanh tịnh.

Vì sao?

Vì trí nhất thiết tướng thanh tịnh ấy cùng với tất cả pháp môn Đà La Ni thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì tất cả pháp môn Đà La Ni thanh tịnh nên tất cả pháp môn Tam Ma Địa thanh tịnh. Vì tất cả pháp môn Tam Ma Địa thanh tịnh nên tất cả pháp môn Đà La Ni thanh tịnh.

Vì sao?

Vì tất cả pháp môn Đà La Ni thanh tịnh ấy cùng với tất cả pháp môn Tam Ma Địa thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Vì tất cả pháp môn Tam Ma Địa thanh tịnh nên Dự Lưu quả thanh tịnh. Vì Dự Lưu quả thanh tịnh nên tất cả pháp môn Tam Ma Địa thanh tịnh.

Vì sao?

Vì tất cả pháp môn Tam Ma Địa thanh tịnh ấy cùng với Dự Lưu quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Dự Lưu quả thanh tịnh nên Nhất Lai quả thanh tịnh. Vì Nhất Lai quả thanh tịnh nên Dự Lưu quả thanh tịnh.

Vì sao?

Vì Dự Lưu quả thanh tịnh ấy cùng với Nhất Lai quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Nhất Lai quả thanh tịnh nên Bất Hoàn quả thanh tịnh. Vì Bất Hoàn quả thanh tịnh nên Nhất Lai quả thanh tịnh.

Vì sao?

Vì Nhất Lai quả thanh tịnh ấy cùng với Bất Hoàn quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt. Vì Bất Hoàn quả thanh tịnh nên A La Hán quả thanh tịnh. Vì A La Hán quả thanh tịnh nên Bất Hoàn quả thanh tịnh.

Vì sao?

Vì Bất Hoàn quả thanh tịnh ấy cùng với A La Hán quả thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Vì A La Hán quả thanh tịnh nên quả vị Ðộc Giác thanh tịnh. Vì quả vị Ðộc Giác thanh tịnh nên A La Hán quả thanh tịnh.

Vì sao?

Vì A La Hán quả thanh tịnh ấy cùng với quả vị Ðộc Giác thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Vì quả vị Ðộc Giác thanh tịnh nên tất cả hạnh Đại Bồ Tát thanh tịnh. Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát thanh tịnh nên quả vị Ðộc Giác thanh tịnh.

Vì sao?

Vì quả vị Ðộc Giác thanh tịnh ấy cùng với tất cả hạnh Đại Bồ Tát thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát thanh tịnh nên quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật thanh tịnh. Vì quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật thanh tịnh nên tất cả hạnh Đại Bồ Tát thanh tịnh.

Vì sao?

Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát thanh tịnh ấy cùng với quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật thanh tịnh không hai, không hai phần, không phân biệt, không đoạn diệt.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần