Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Ba Mươi Hai - Phẩm Khen Bát Nhã - Phần Mười Bốn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM BA MƯƠI HAI

PHẨM KHEN BÁT NHÃ  

PHẦN MƯỜI BỐN  

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với mười lực Phật hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ.

Đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ. Đối với mười lực Phật hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán.

Đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán. Đối với mười lực Phật hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng.

Đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng. Đối với mười lực Phật hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp.

Đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp. Đối với mười lực Phật hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức.

Đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao?

Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới có khả năng chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với pháp không quên mất hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ. Đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ.

Đối với pháp không quên mất hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán. Đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán.

Đối với pháp không quên mất hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng. Đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng.

Đối với pháp không quên mất hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp. Đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp. Đối với pháp không quên mất hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức.

Đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao?

Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới có khả năng chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với trí nhất thiết hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ. Đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ. Đối với trí nhất thiết hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán.

Đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán. Đối với trí nhất thiết hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng.

Đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng. Đối với trí nhất thiết hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp.

Đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp. Đối với trí nhất thiết hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức.

Đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao?

Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ. Đối với tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ.

Đối với tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán. Đối với tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán.

Đối với tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng. Đối với tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng.

Đối với tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp. Đối với tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp. Đối với tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức.

Đối với tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao?

Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với Dự Lưu hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ. Đối với Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ.

Đối với Dự Lưu hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán. Đối với Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán.

Đối với Dự Lưu hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, đối với Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng.

Đối với Dự Lưu hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp. Đối với Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp. Đối với Dự Lưu hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức.

Đối với Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao?

Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ. Đối với Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ. Đối với Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán.

Đối với Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán. Đối với Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng.

Đối với Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng. Đối với Dự Lưu hướng Dự Lưu quả hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp.

Đối với Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp. Đối với Dự Lưu hướng, Dự Lưu hướng quả hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức.

Đối với Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao?

Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với Ðộc Giác hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ. Đối với quả vị Ðộc Giác hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ.

Đối với Ðộc Giác hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán. Đối với quả vị Ðộc Giác hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán. Đối với Ðộc Giác hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng.

Đối với quả vị Ðộc Giác hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng. Đối với Ðộc Giác hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp.

Đối với quả vị Ðộc Giác hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp. Đối với Ðộc Giác hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức.

Đối với quả vị Ðộc Giác hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao?

Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với chư Đại Bồ Tát hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ. Đối với hạnh Đại Bồ Tát hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ.

Đối với chư Đại Bồ Tát hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán. Đối với hạnh Đại Bồ Tát hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán.

Đối với chư Đại Bồ Tát hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng. Đối với hạnh Đại Bồ Tát hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng.

Đối với chư Đại Bồ Tát hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp. Đối với hạnh Đại Bồ Tát hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp. Đối với chư Đại Bồ Tát hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức.

Đối với hạnh Đại Bồ Tát hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao?

Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ.

Đối với quả vị giác ngộ cao tột của Phật hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ. Đối với chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán.

Đối với quả vị giác ngộ cao tột của Phật hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán. Đối với chư Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng.

Đối với quả vị giác ngộ cao tột của Phật hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng. Đối với chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp.

Đối với quả vị giác ngộ cao tột của Phật hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp. Đối với chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức.

Đối với quả vị giác ngộ cao tột của Phật hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao?

Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật đa như thế, đối với tất cả các pháp hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ. Đối với tất cả pháp hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán.

Đối với tất cả pháp hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng. Đối với tất cả pháp hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp.

Đối với tất cả các pháp hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao?

Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình vô sanh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. Vì hữu tình vô diệt nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Vì hữu tình vô tự tánh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh.

Vì hữu tình vô sở hữu nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu. Vì hữu tình là không nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng không. Vì hữu tình vô tướng nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng.

Vì hữu tình vô nguyện nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện. Vì hữu tình viễn ly nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng viễn ly. Vì hữu tình tịch tịnh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng tịch tịnh. Vì hữu tình bất khả đắc nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc.

Vì hữu tình bất khả tư nghì nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Vì hữu tình vô tri giác nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tri giác. Vì thế lực của hữu tình chẳng thành tựu nên biết thế lực của bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng thành tựu.

Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói bát nhã Ba la mật đa của Đại Bồ Tát là đại Ba la mật đa.

Lại nữa, bạch Thế Tôn!

Vì sắc vô sanh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. Thọ, tưởng, hành, thức vô sanh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh.

Vì sắc vô diệt nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Thọ, tưởng, hành, thức vô diệt nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt.

Vì sắc vô tự tánh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Thọ, tưởng, hành, thức vô tự tánh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh.

Vì sắc vô sở hữu nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu. Thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu.

Vì sắc là không nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng là không. Thọ, tưởng, hành, thức là không nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng là không.

Vì sắc vô tướng nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng. Thọ, tưởng, hành, thức vô tướng nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng.

Vì sắc vô nguyện nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện. Thọ, tưởng, hành, thức vô nguyện nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện.

Vì sắc viễn ly nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng viễn ly. Thọ, tưởng, hành, thức viễn ly nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng viễn ly.

Vì sắc tịch tịnh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng tịch tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức tịch tịnh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng tịch tịnh.

Vì sắc bất khả đắc nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Thọ, tưởng, hành, thức bất khả đắc nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc.

Vì sắc bất khả tư nghì nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Thọ, tưởng, hành, thức bất khả tư nghì nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì.

Vì sắc vô tri giác nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tri giác. Thọ, tưởng, hành, thức vô tri giác nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tri giác.

Vì thế lực của sắc chẳng thành tựu nên biết thế lực của bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng thành. Thế lực của thọ, tưởng, hành, thức chẳng thành tựu nên biết thế lực của bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng thành tựu.

Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói bát nhã Ba la mật đa của Đại Bồ Tát là đại Ba la mật đa.

Lại nữa, bạch Thế Tôn!

Vì nhãn xứ vô sanh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô sanh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh.

Vì nhãn xứ vô diệt nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô diệt nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. 

Vì nhãn xứ vô tự tánh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô tự tánh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh.

Vì nhãn xứ vô sở hữu nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô sở hữu nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu.

Vì nhãn xứ là không nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng không.

Vì nhãn xứ vô tướng, nên biết bát nhã bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô tướng nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng.

Vì nhãn xứ vô nguyện nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô nguyện nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện.

Vì nhãn xứ viễn ly nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng viễn ly. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ viễn ly nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng viễn ly.

Vì nhãn xứ tịch tịnh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng tịch tịnh. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịch tịnh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng tịch tịnh.

Vì nhãn xứ bất khả đắc nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bất khả đắc nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc.

Vì nhãn xứ bất khả tư nghì nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bất khả tư nghì nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả tư nghì.

Vì nhãn xứ vô tri giác nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tri giác. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô tri giác nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tri giác.

Vì thế lực của nhãn xứ chẳng thành tựu nên biết thế lực của bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng thành tựu. Thế lực của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thành tựu nên biết thế lực của bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng thành tựu.

Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói bát nhã Ba la mật đa của Đại Bồ Tát là đại Ba la mật đa.

Lại nữa, bạch Thế Tôn!

Vì sắc xứ vô sanh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô sanh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sanh.

Vì sắc xứ vô diệt nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô diệt nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô diệt.

Vì sắc xứ vô tự tánh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô tự tánh nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tự tánh.

Vì sắc xứ vô sở hữu nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô sở hữu nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô sở hữu.

Vì sắc xứ là không nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng không. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng không.

Vì sắc xứ vô tướng nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô tướng nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô tướng.

Vì sắc xứ vô nguyện nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô nguyện nên biết bát nhã Ba la mật đa cũng vô nguyện.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần