Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Ba Mươi Sáu - Phẩm Trước Và Chẳng Trước Tướng - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM BA MƯƠI SÁU

PHẨM TRƯỚC VÀ CHẲNG TRƯỚC TƯỚNG  

PHẦN MỘT   

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân nào trụ Bồ Tát thừa mà không có phương tiện khéo léo đối với bát nhã Ba la mật đa này, khởi tưởng bát nhã Ba la mật đa, mà dùng hữu sở đắc làm phương tiện thì rời bỏ xa lìa bát nhã Ba la mật đa sâu xa.

Phật dạy: Hay thay! Hay thay!

Này Thiện Hiện! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói, thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, đối với bát nhã Ba la mật đa, trước danh, trước tướng nên đối với pháp này, rời bỏ xa lìa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn!

Vì sao thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đối với bát nhã Ba la mật đa này lại trước danh, trước tướng?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân ấy, đối với bát nhã Ba la mật đa bám lấy danh, bám lấy tướng và bám lấy danh tướng rồi đắm trước bát nhã Ba la mật đa, thì không thể chứng đắc thật tướng bát nhã. Vì vậy họ rời bỏ xa lìa bát nhã Ba la mật đa sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ Tát thừa nhưng nếu không dùng phương tiện khéo léo đối với bát nhã Ba la mật đa này bám lấy danh, bám lấy tướng và bám lấy danh tướng rồi dựa vào bát nhã Ba la mật đa này mà sanh kiêu mạn, thì không thể chứng đắc thật tướng bát nhã. Do đó, họ rời bỏ, xa lìa bát nhã Ba la mật đa sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ Tát thừa, có phương tiện khéo léo, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với bát nhã Ba la mật đa này không bám danh tướng, không khởi đắm trước, không sanh kiêu mạn thì có khả năng chứng đắc thật tướng bát nhã. Nên biết, hạng người này gọi là không rời bỏ xa lìa bát nhã Ba la mật đa.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Rất đặc biệt! Ngài khéo vì chúng Đại Bồ Tát mà đối với bát nhã Ba la mật đa này, khai thị, phân biệt sự trước và không trước tướng.

Lúc bấy giờ cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi cụ thọ Thiện Hiện: Khi Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật đa thì thế nào là trước tướng và không trước tướng?

Thiện Hiện đáp: Này Xá Lợi Tử! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ Tát thừa, nếu không có phương tiện khéo léo, khi hành bát nhã Ba la mật đa thì đối với sắc cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với nhãn xứ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với sắc xứ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với nhãn giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với nhĩ giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với tỷ giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với thiệt giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với thân giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với ý giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với địa giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với vô minh cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với Bố Thí Ba la mật đa cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với pháp không nội cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo.

Pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với chân như cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với Thánh đế khổ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với bốn tịnh lự cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với tám giải thoát cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với bốn niệm trụ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với pháp môn giải thoát không cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với mười địa Bồ Tát cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với năm loại mắt cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với sáu phép thần thông cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với mười lực Phật cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với pháp không quên mất cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với tánh luôn luôn xả cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với trí nhất thiết cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với tất cả pháp môn Đà La Ni cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với tất cả pháp môn Tam Ma Địa cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với quả Dự Lưu cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với quả vị Độc Giác cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với tất cả hạnh Đại Bồ Tát cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Hoặc đối với quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Hoặc đối với pháp quá khứ cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không. Đối với pháp vị lai, hiện tại cho là không, rồi khởi tưởng chấp trước không.

Này Xá Lợi Tử! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ Tát thừa, nếu không có phương tiện khéo léo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa thì đối với sắc cho là sắc rồi khởi tưởng chấp trước sắc, đối với thọ, tưởng, hành, thức cho là thọ, tưởng, hành, thức rồi khởi tưởng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức.

Hoặc đối với nhãn xứ cho là nhãn xứ rồi khởi tưởng chấp trước nhãn xứ, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cho là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ rồi khởi tưởng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Hoặc đối với sắc xứ cho là sắc xứ rồi khởi tưởng chấp trước sắc xứ, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cho là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ rồi khởi tưởng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Hoặc đối với nhãn giới cho là nhãn giới rồi khởi tưởng chấp trước nhãn giới, đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra rồi khởi tưởng chấp trước sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Hoặc đối với nhĩ giới cho là nhĩ giới rồi khởi tưởng chấp trước nhĩ giới, đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cho là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra rồi khởi tưởng chấp trước thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Hoặc đối với tỷ giới cho là tỷ giới rồi khởi tưởng chấp trước tỷ giới, đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cho là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra rồi khởi tưởng chấp trước hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Hoặc đối với thiệt giới cho là thiệt giới rồi khởi tưởng chấp trước thiệt giới, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cho là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra rồi khởi tưởng chấp trước vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Hoặc đối với thân giới cho là thân giới rồi khởi tưởng chấp trước thân giới, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cho là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra rồi khởi tưởng chấp trước xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Hoặc đối với ý giới cho là ý giới rồi khởi tưởng chấp trước ý giới, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cho là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra rồi khởi tưởng chấp trước pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Hoặc đối với địa giới cho là địa giới rồi khởi tưởng chấp trước địa giới, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cho là thủy, hỏa, phong, không, thức giới rồi khởi tưởng chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Hoặc đối với vô minh cho là vô minh rồi khởi tưởng chấp trước vô minh, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cho là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não rồi khởi tưởng chấp trước hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Hoặc đối với bố thí Ba la mật đa cho là bố thí Ba la mật đa rồi khởi tưởng chấp trước bố thí Ba la mật đa, đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa cho là tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa rồi khởi tưởng chấp trước tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa.

Hoặc đối với pháp không nội cho là pháp không nội rồi khởi tưởng chấp trước pháp không nội, đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo.

Pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh.

Pháp không không tánh tự tánh cho là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh rồi khởi tưởng chấp trước pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Hoặc đối với chân như cho là chân như rồi khởi tưởng chấp trước chân như, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cho là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì rồi khởi tưởng chấp trước pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Hoặc đối với Thánh đế khổ cho là Thánh đế khổ rồi khởi tưởng chấp trước Thánh đế khổ, đối với Thánh đế tập, diệt, đạo cho là Thánh đế tập, diệt, đạo rồi khởi tưởng chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo.

Hoặc đối với bốn tịnh lự cho là bốn tịnh lự rồi khởi tưởng chấp trước bốn tịnh lự, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc cho là bốn vô lượng, bốn định vô sắc rồi khởi tưởng chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Hoặc đối với tám giải thoát cho là tám giải thoát rồi khởi tưởng chấp trước tám giải thoát, đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cho là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ rồi khởi tưởng chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Hoặc đối với bốn niệm trụ cho là bốn niệm trụ rồi khởi tưởng chấp trước bốn niệm trụ, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo cho là bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo rồi khởi tưởng chấp trước bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.

Hoặc đối với pháp môn giải thoát không cho là pháp môn giải thoát không rồi khởi tưởng chấp trước pháp môn giải thoát không, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cho là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện rồi khởi tưởng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Hoặc đối với mười địa Bồ Tát cho là mười địa Bồ Tát rồi khởi tưởng chấp trước mười địa Bồ Tát.

Hoặc đối với năm loại mắt cho là năm loại mắt rồi khởi tưởng chấp trước năm loại mắt, đối với sáu phép thần thông cho là sáu phép thần thông rồi khởi tưởng chấp trước sáu phép thần thông.

Hoặc đối với mười lực Phật cho là mười lực Phật rồi khởi tưởng chấp trước mười lực Phật, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng cho là bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng rồi khởi tưởng chấp trước bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.

Hoặc đối với pháp không quên mất cho là pháp không quên mất rồi khởi tưởng chấp trước pháp không quên mất, đối với tánh luôn luôn xả cho là tánh luôn luôn xả rồi khởi tưởng chấp trước tánh luôn luôn xả.

Hoặc đối với trí nhất thiết cho là trí nhất thiết rồi khởi tưởng chấp trước trí nhất thiết, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cho là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rồi khởi tưởng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Hoặc đối với tất cả pháp môn Đà La Ni cho là tất cả pháp môn Đà La Ni rồi khởi tưởng chấp trước tất cả pháp môn Đà La Ni, đối với tất cả pháp môn Tam Ma Địa cho là tất cả pháp môn Tam Ma Địa rồi khởi tưởng chấp trước tất cả pháp môn Tam Ma Địa.

Hoặc đối với quả Dự Lưu cho là quả Dự Lưu rồi khởi tưởng chấp trước quả Dự Lưu, đối với quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán cho là quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán rồi khởi tưởng chấp trước quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán. Hoặc đối với quả vị Độc Giác cho là quả vị Độc Giác rồi khởi tưởng chấp trước quả vị Độc Giác.

Hoặc đối với tất cả hạnh Đại Bồ Tát cho là tất cả hạnh Đại Bồ Tát rồi khởi tưởng chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ Tát. Hoặc đối với quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật cho là quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật rồi khởi tưởng chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật.

Hoặc đối với pháp quá khứ cho là pháp quá khứ rồi khởi tưởng chấp trước pháp quá khứ, đối với pháp vị lai, hiện tại cho là pháp vị lai, hiện tại rồi khởi tưởng chấp trước pháp vị lai, hiện tại.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần