Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Bảy Mươi Hai - Phẩm Nghiêm Tịnh Cõi Phật - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM BẢY MƯƠI HAI

PHẨM NGHIÊM TỊNH CÕI PHẬT  

PHẦN MỘT  

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện nghĩ thế này: Pháp nào gọi là đạo Đại Bồ Tát mà các Đại Bồ Tát an trụ đạo này, thường mặc các loại áo giáp đại công đức, làm lợi ích an lạc tất cả hữu tình?

Phật biết tâm niệm ấy, bảo với Thiện Hiện: Này Thiện Hiện! Nên biết, bố thí Ba la mật đa là đạo Đại Bồ Tát, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa là đạo Đại Bồ Tát. Bốn niệm trụ là đạo Đại Bồ Tát, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo là đạo Đại Bồ Tát.

Pháp không nội là đạo Đại Bồ Tát, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới.

Pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, là đạo Đại Bồ Tát.

Thánh đế khổ là đạo Đại Bồ Tát, Thánh đế tập, diệt, đạo là đạo Đại Bồ Tát. Bốn tịnh lự là đạo Đại Bồ Tát, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là đạo Đại Bồ Tát. Tám giải thoát là đạo Đại Bồ Tát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là đạo Đại Bồ Tát.

Tất cả pháp môn Đà La Ni là đạo Đại Bồ Tát, tất cả pháp môn Tam Ma Địa là đạo Đại Bồ Tát. Pháp môn giải thoát không là đạo Đại Bồ Tát, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là đạo Đại Bồ Tát.

Bậc Cực Hỷ là đạo Đại Bồ Tát, Bậc Ly Cấu, Bậc Phát Quang, Bậc Diệm Tuệ, Bậc Cực Nan Thắng, Bậc Hiện Tiền, Bậc Viễn Hành, Bậc Bất Động, Bậc Thiện Tuệ, Bậc Pháp Vân là đạo Đại Bồ Tát. Năm loại mắt là đạo Đại Bồ Tát, sáu phép thần thông là đạo Đại Bồ Tát.

Mười lực Phật là đạo Đại Bồ Tát, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng là đạo Đại Bồ Tát. Pháp không quên mất là đạo Đại Bồ Tát, tánh luôn luôn xả là đạo Đại Bồ Tát. Trí nhất thiết là đạo Đại Bồ Tát, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là đạo Đại Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nói tóm lại, tất cả pháp đều là đạo Đại Bồ Tát.

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao?

Có pháp nào là pháp mà các Đại Bồ Tát chẳng nên học, và các Đại Bồ Tát chẳng học pháp này mà có thể đắc quả vị giác ngộ cao tột chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Hiện! Nhất định không có pháp nào mà các Đại Bồ Tát chẳng nên học. Các Đại Bồ Tát chẳng học pháp này, quyết chẳng có thể đắc sở cầu là quả vị giác ngộ cao tột.

Vì sao?

Này Thiện Hiện! Vì nếu Đại Bồ Tát chẳng học tất cả pháp thì chẳng bao giờ có thể đắc trí nhất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tự tánh đều không, thì tại sao Đại Bồ Tát học tất cả pháp?

Chẳng lẽ Thế Tôn đối với pháp không hý luận mà tạo ra sự hý luận, rằng có các pháp là pháp này, là pháp kia, do vậy nên là vậy.

Đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu, đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi, đây là pháp phàm phu, đây là pháp Dự Lưu, đây là pháp Nhất Lai, đây là pháp Bất Hoàn, đây là pháp A La Hán, đây là pháp Độc Giác, đây là pháp Bồ Tát, đây là pháp Như Lai.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Các pháp sở hữu tự tánh đều không.

Này Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp tự tánh chẳng không, thì đáng lẽ các Đại Bồ Tát chẳng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp, tự tánh đều không, cho nên các Đại Bồ Tát có thể đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Như lời ông hỏi, nếu tất cả pháp tự tánh đều không, thì tại sao Đại Bồ Tát học tất cả pháp?

Chẳng lẽ Thế Tôn đối với pháp không hý luận mà tạo ra sự hý luận có các pháp là pháp này, là pháp kia, do vậy nên là vậy.

Đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, cho đến đây là pháp Bồ Tát, đây là pháp Như Lại, thì này Thiện Hiện! Nếu các hữu tình biết tất cả pháp đều tự tánh không, thì các Đại Bồ Tát chẳng nên học tất cả pháp, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình an lập tuyên thuyết.

Nhưng này Thiện Hiện! Vì các hữu tình chẳng biết các pháp, đều là tự tánh không, nên các Đại Bồ Tát học tất cả pháp, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình an lập tuyên thuyết.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát đối với đạo Bồ Tát, khi mới tu học, nên quán sát kỹ, tự tánh các pháp, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, chỉ có chấp trước do hòa hợp tạo ra. Ta nên quán sát kỹ tự tánh các pháp đều rốt ráo không, chẳng nên đối với chúng, có sự chấp trước, đó là chẳng nên chấp trước sắc, chẳng nên chấp trước thọ, tưởng, hành, thức.

Chẳng nên chấp trước nhãn xứ, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Chẳng nên chấp trước sắc xứ, chẳng nên chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Chẳng nên chấp trước nhãn giới, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Chẳng nên chấp trước sắc giới, chẳng nên chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Chẳng nên chấp trước nhãn thức giới, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Chẳng nên chấp trước nhãn xúc, chẳng nên chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Chẳng nên chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng nên chấp trước các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Chẳng nên chấp trước địa giới, chẳng nên chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Chẳng nên chấp trước nhân duyên, chẳng nên chấp trước đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Chẳng nên chấp trước các pháp từ duyên sanh ra. Chẳng nên chấp trước vô minh, chẳng nên chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Chẳng nên chấp trước bố thí Ba la mật đa, chẳng nên chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Chẳng nên chấp trước pháp không nội, chẳng nên chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa.

Pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Chẳng nên chấp trước bốn niệm trụ, chẳng nên chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo. Chẳng nên chấp trước Thánh đế khổ, chẳng nên chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo.

Chẳng nên chấp trước bốn tịnh lự, chẳng nên chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chẳng nên chấp trước tám giải thoát, chẳng nên chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Chẳng nên chấp trước pháp môn Đà La Ni, chẳng nên chấp trước pháp môn Tam Ma Địa.

Chẳng nên chấp trước pháp môn giải thoát không, chẳng nên chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Chẳng nên chấp trước Bậc Cực Hỷ, chẳng nên chấp trước Bậc Ly Cấu, Bậc Phát Quang, Bậc Diệm Tuệ, Bậc Cực Nan Thắng, Bậc Hiện Tiền, Bậc Viễn Hành, Bậc Bất Động, Bậc Thiện Tuệ, Bậc Pháp Vân.

Chẳng nên chấp trước năm loại mắt, chẳng nên chấp trước sáu phép thần thông. Chẳng nên chấp trước mười lực Phật, chẳng nên chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng.

Chẳng nên chấp trước pháp không quên mất, chẳng nên chấp trước tánh luôn luôn xả. Chẳng nên chấp trước trí nhất thiết, chẳng nên chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Chẳng nên chấp trước quả Dự Lưu, chẳng nên chấp trước quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc Giác. Chẳng nên chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ Tát.  Chẳng nên chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật.

Vì sao?

Vì tất cả pháp tự tánh đều không, tánh không chẳng nên chấp trước tánh không. Trong cái không, tánh không còn chẳng thể nắm bắt được, huống là có tánh không có thể chấp trước không.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát khi quán sát tất cả pháp như thế, đối với các pháp tánh, tuy không chấp trước, nhưng đối với các pháp, thường học không mệt mỏi.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, an trụ trong sự học này, quán các hữu tình, tâm hành sai biệt, đó là quán sát kỹ các hữu tình ấy, tâm hành chỗ nào. Đã quán kỹ rồi, như thật rõ biết, tâm của họ chỉ hành sở chấp hư vọng.

Bấy giờ, Bồ Tát nghĩ thế này: Tâm họ đã hành sở chấp hư vọng, thì ta khiến họ giải thoát, chắc chắn phải là khó.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, nghĩ như vậy rồi an trụ bát nhã Ba la mật đa, phương tiện thiện xảo, dạy bảo trao truyền cho các hữu tình: Nay đây, các ngươi đều nên xa lìa sở chấp hư vọng, hướng vào chánh pháp tu các hạnh lành. 

Lại nói thế này: nay đây, các ngươi nên hành bố thí Ba la mật đa, sẽ được vật dụng, không thiếu thốn gì, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong ấy hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong ấy hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp không nội, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong ấy hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn.

Pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành bốn niệm trụ, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành Thánh đế khổ, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành Thánh đế tập, diệt, đạo, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành bốn tịnh lự, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành tám giải thoát, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp môn Đà La Ni, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp môn Tam Ma Địa, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp môn giải thoát không, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành Bậc Cực Hỷ, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành Bậc Ly Cấu, Bậc Phát Quang, Bậc Diệm Tuệ, Bậc Cực Nan Thắng, Bậc Hiện Tiền, Bậc Viễn Hành, Bậc Bất Động, Bậc Thiện Tuệ, Bậc Pháp Vân, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành năm loại mắt, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành sáu phép thần thông, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành mười lực Phật, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành pháp không quên mất, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành tánh luôn luôn xả, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành trí nhất thiết, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành quả Dự Lưu nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc Giác, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành tất cả hạnh Đại Bồ Tát, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật. Nay đây các ngươi nên hành quả vị giác ngộ cao tột, nhưng chớ ỷ vào điều này mà sanh kiêu mạn.

Vì sao?

Vì trong đó hoàn toàn không có sự chắc thật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, an trụ bát nhã Ba la mật đa, phương tiện thiện xảo, khi dạy bảo trao truyền cho các hữu tình, hành đạo bồ đề không có chấp trước.

Vì sao?

Vì tánh của tất cả pháp chẳng nên chấp trước, hoặc năng chấp, hoặc sở chấp, hoặc sự chấp đều không có tự tánh, vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, khi tu hành đạo bồ đề như thế, đối với tất cả pháp hoàn toàn không sở trụ. Vì lấy không có sở trụ làm phương tiện, nên tuy hành bố thí Ba la mật đa nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành pháp không nội nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi.

Pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành bốn niệm trụ nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ. Tuy hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành Thánh đế khổ nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành Thánh đế tập, diệt, đạo nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành bốn tịnh lự nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành tám giải thoát nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành pháp môn Đà La Ni nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành pháp môn Tam Ma Địa nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành pháp môn giải thoát không nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành Bậc Cực Hỷ nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành Bậc Ly Cấu, Bậc Phát Quang, Bậc Diệm Tuệ, Bậc Cực Nan Thắng, Bậc Hiện Tiền, Bậc Viễn Hành, Bậc Bất Động, Bậc Thiện Tuệ, Bậc Pháp Vân nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành năm loại mắt nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành sáu phép Thần Thông nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành mười lực Phật nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành pháp không quên mất nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành tánh luôn luôn xả, nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành trí nhất thiết nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành quả Dự Lưu nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc Giác nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không. Tuy hành tất cả hạnh Đại Bồ Tát nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ, tuy hành quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật nhưng ở trong đó, hoàn toàn không có sở trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh như thế, hành giả, hành tướng, tất cả đều không.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, tuy có thể đắc quả Dự Lưu nhưng chẳng trụ trong quả ấy. Tuy có thể đắc quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc Giác nhưng chẳng trụ trong những quả ấy.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ Tát ấy tuy có thể đắc quả Dự Lưu nhưng chẳng trụ trong đó, tuy có thể đắc quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc Giác nhưng chẳng trụ trong đó?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, có hai nhân duyên, tuy có thể đắc quả Dự Lưu nhưng chẳng trụ trong đó. Tuy có thể đắc quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc Giác nhưng chẳng trụ trong đó.

Hai nhân duyên ấy là gì?

Một là quả ấy hoàn toàn không có tự tánh, năng trụ, sở trụ đều chẳng thể nắm bắt được. Hai là đối với quả ấy chẳng vừa ý, vì vậy chẳng trụ.

Nghĩa là Đại Bồ Tát ấy thường nghĩ thế này: Ta nhất định xứng đáng đắc quả Dự Lưu, chẳng nên chẳng đắc, nhưng chẳng nên trụ trong đó. Ta nhất định xứng đáng đắc quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc Giác chẳng nên chẳng đắc, nhưng chẳng nên trụ trong đó.

Vì sao?

Vì từ khi ta mới phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột đến nay, ở trong bất cứ lúc nào, chẳng nghĩ tưởng gì khác, chỉ cầu quả vị giác ngộ cao tột, ta nhất định sẽ chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, thì ở khoảng nửa đường ta đâu có nên trụ một quả nào khác.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, từ khi mới phát tâm cho đến khi nhập chánh tánh ly sanh của Bồ Tát không hề có tư tưởng nào khác, chỉ cầu quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, từ khi đắc sơ địa cho đến khi đắc địa thứ mười không hề có tư tưởng nào khác, chỉ cầu quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, chuyên cầu quả vị giác ngộ cao tột, ở bất cứ lúc nào tâm không tán loạn, có phát khởi nghiệp thân, ngữ, ý nào đều tương ưng với tâm bồ đề.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, an trụ tâm bồ đề khởi đạo bồ đề, chẳng bị cảnh khác làm nhiễu loạn tâm.

Lúc bấy gờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều chẳng sanh, thì tại sao Đại Bồ Tát khởi đạo bồ đề?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Tất cả pháp đều chẳng sanh.

Ở đây, những người không làm gì, không hướng đến đâu thì làm sao lại biết tất cả pháp đều chẳng sanh?

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn!

Như Lai xuất thế hoặc chẳng xuất thế, thì các pháp, pháp giới, pháp nhĩ đâu chẳng thường trú.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như Lai xuất thế hoặc chẳng xuất thế, các pháp, pháp giới, pháp nhĩ vẫn thường trú. Nhưng các hữu tình chẳng thể hiểu rõ các pháp, pháp giới, pháp nhĩ thường trú. Các Đại Bồ Tát vì làm lợi ích nên khởi đạo bồ đề, do đạo bồ đề cứu vớt hữu tình, khiến vĩnh viễn giải thoát các khổ sanh tử.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát có phải dùng sanh đạo mà đắc bồ đề chăng?

Phật dạy: Không! Bạch Thế Tôn! Có phải dùng bất sanh đạo mà đắc bồ đề chăng?

Phật dạy: Không! Bạch Thế Tôn! Có phải dùng đạo sanh bất sanh mà đắc bồ đề chăng?

Phật dạy: Không! Bạch Thế Tôn! Có phải dùng đạo chẳng phải sanh, chẳng phải chẳng sanh mà đắc bồ đề chăng?

Phật dạy: Không!

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát làm thế nào để đắc bồ đề?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Chẳng dùng đạo đắc bồ đề, cũng chẳng dùng phi đạo đắc bồ đề.

Vì sao?

Này Thiện Hiện! Vì bồ đề tức là đạo, đạo tức là bồ đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu bồ đề tức là đạo, đạo tức là bồ đề, thì các Đại Bồ Tát đâu chẳng đã đắc đạo bồ đề, đáng lẽ đã đắc đạo bồ đề, nếu vậy thì tại sao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác lại vì họ nói ba mươi hai tướng Đại Sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, và mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng v.v… vô lượng Phật Pháp, khiến họ tu chứng?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao?

Ông có gọi Phật đắc bồ đề chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Bạch Thiện Thệ! Không! Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì Phật tức là bồ đề, bồ đề tức là Phật, cho nên chẳng nên gọi là Phật đắc bồ đề.

Phật dạy: Này Thiện Hiện!  Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng điều ông hỏi là các Đại Bồ Tát đâu chẳng đã đắc đạo bồ đề, đáng lẽ đã đắc bồ đề, thì này Thiện Hiện!

Các Đại Bồ Tát tu đạo bồ đề chưa được viên mãn, tại sao có thể nói đã đắc bồ đề?

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát nếu đã viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Nếu đã viên mãn pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi.

Pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Nếu đã viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo.

Nếu đã viên mãn Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo. Nếu đã viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Nếu đã viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Nếu đã viên mãn pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa. Nếu đã viên mãn pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Nếu đã viên mãn Bậc Cực Hỷ, Bậc Ly Cấu, Bậc Phát Quang, Bậc Diệm Tuệ, Bậc Cực Nan Thắng, Bậc Hiện Tiền, Bậc Viễn Hành, Bậc Bất Động, Bậc Thiện Tuệ, Bậc Pháp Vân.

Nếu đã viên mãn năm loại mắt, sáu phép Thần Thông. Nếu đã viên mãn mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng. Nếu đã viên mãn ba mươi hai tướng Đại Sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc. Nếu đã viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Nếu đã viên mãn trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Nếu đã viên mãn tất cả hạnh Đại Bồ Tát. Nếu đã viên mãn sự quán sát mười hai chi duyên khởi theo chiều thuận nghịch.

Nếu đã viên mãn tất cả Thần Thông tự tại của Bồ Tát. Nếu đã viên mãn Sa Ma Tha, Tỳ Bát Xá Na thù thắng. Nếu đã viên mãn tất cả tư lương phước đức trí tuệ. Nếu đã viên mãn thành thục hữu tình, nghiêm tịnh Cõi Phật.

Nếu đã viên mãn vô lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn diệu pháp của Chư Phật, thì từ đây liên tục dùng một sát na định Kim cương dụ tương ưng diệu tuệ, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả phiền não, hai chướng sở tri, tập khí thô trọng tương tục, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, mới gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với tất cả pháp được đại tự tại, lợi ích an lạc tất cả hữu tình, tận đời vị lai.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nghiêm tịnh Cõi Phật như thế nào?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm cho đến cứu cánh, thường tự thanh tịnh thân thô trọng, ngữ thô trọng, ý thô trọng, cũng thanh tịnh thân thô trọng, ngữ thô trọng, ý thô trọng của người. Đại Bồ Tát ấy vì thanh tịnh ba thô trọng của mình và người, nên có thể nghiêm tịnh sở cầu là Cõi Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Cái gì là thân, ngữ, ý thô trọng của Đại Bồ Tát?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Hoặc sát hại sanh mạng, hoặc chẳng cho mà lấy, hoặc dâm dục tà hành, các hạnh ác bất thiện của thân như thế gọi là thân thô trọng của Đại Bồ Tát. Hoặc nói hư dối, hoặc nói ly gián, hoặc nói thô ác, hoặc nói hỗn tạp, các hạnh ác bất thiện như thế của lời nói gọi là ngữ thô trọng của Đại Bồ Tát. Hoặc tham dục, hoặc sân giận, hoặc tà kiến, các hạnh ác bất thiện của ý như thế gọi là ý thô trọng của Đại Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Đại Bồ Tát đều chẳng thanh tịnh thì cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát có tâm xan tham, tâm phạm giới, tâm sân giận, tâm giải đãi, tâm tán loạn, tâm ác tuệ, thì cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát xa lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát xa lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh.

Pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát xa lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát xa lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát xa lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát xa lìa pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát xa lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát xa lìa các địa của Đại Bồ Tát cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát xa lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát xa lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát xa lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát xa lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát xa lìa hạnh Đại Bồ Tát, quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát tham quả chứng Dự Lưu, hoặc quả chứng Nhất Lai, hoặc quả chứng Bất Hoàn, hoặc quả chứng A La Hán, hoặc quả chứng Độc Giác cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ Tát khởi tưởng sắc, khởi tưởng thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng nhãn xứ, khởi tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng sắc xứ, khởi tưởng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng nhãn giới, khởi tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng sắc giới, khởi tưởng thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng nhãn thức giới, khởi tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng nhãn xúc, khởi tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, khởi tưởng các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng địa giới, khởi tưởng thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng nhân duyên, khởi tưởng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng các pháp từ duyên sanh ra cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng vô minh, khởi tưởng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng bố thí Ba la mật đa, khởi tưởng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng pháp không nội, khởi tưởng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới.

Pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng Thánh đế khổ, khởi tưởng Thánh đế tập, diệt, đạo cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng bốn tịnh lự, khởi tưởng bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng tám giải thoát, khởi tưởng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng pháp môn Đà La Ni, khởi tưởng pháp môn Tam Ma Địa cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng pháp môn giải thoát không, khởi tưởng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng Bậc Cực Hỷ, khởi tưởng Bậc Ly Cấu, Bậc Phát Quang, Bậc Diệm Tuệ, Bậc Cực Nan Thắng, Bậc Hiện Tiền, Bậc Viễn Hành, Bậc Bất Động, Bậc Thiện Tuệ, Bậc Pháp Vân cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng năm loại mắt, khởi tưởng sáu phép Thần Thông cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng mười lực Phật, khởi tưởng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng ba mươi hai tướng Đại Sĩ, khởi tưởng tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng pháp không quên mất, khởi tưởng tánh luôn luôn xả cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng trí nhất thiết, khởi tưởng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng quả Dự Lưu, khởi tưởng quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc Giác cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng tất cả hạnh Đại Bồ Tát, khởi tưởng quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng phàm phu, khởi tưởng Thanh Văn, tưởng Độc Giác, tưởng Bồ Tát, tưởng Như Lai cũng gọi là thô trọng. Khởi tưởng Địa Ngục, khởi tưởng bàng sanh, tưởng quỷ giới, tưởng thiên, tưởng nhơn, tưởng nam, tưởng nữ cũng gọi là thô trọng.

Khởi tưởng Dục Giới, tưởng Sắc Giới, tưởng Vô Sắc Giới. Khởi tưởng thiện, tưởng bất thiện, tưởng vô ký. Khởi tưởng thế gian, tưởng xuất thế gian, khởi tưởng hữu lậu, tưởng vô lậu, khởi tưởng hữu vi, tưởng vô vi cũng gọi là thô trọng.

Này Thiện Hiện! Vô lượng, vô biên các thứ chấp trước các pháp như thế, sự phân biệt hư vọng và nghiệp thân, ngữ, ý đã khởi của chúng sanh và tánh vô kham nhậm của các loài ấy đều gọi là thô trọng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, xa lìa các thô trọng đã nói như thế, tự hành bố thí Ba la mật đa, cũng dạy người hành bố thí Ba la mật đa.

Nếu các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần y phục cho y phục, cần xe cộ cho xe cộ, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần nô bộc cho nô bộc, cần thị vệ cho thị vệ, cần hoa hương cho hoa hương, cần đồ trang sức cho đồ trang sức.

Cần phan lọng cho phan lọng, cần kỹ nhạc cho kỹ nhạc, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần đèn đuốc cho đèn đuốc, cần giường tòa cho giường tòa, tùy theo các thứ nhu cầu vật dụng, tùy thời tùy xứ đều cho hết, như điều mình tự làm, dạy cho người cũng vậy.

Bố thí như thế rồi, đem thiện căn này cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh Cõi Phật, khiến mau viên mãn, lợi lạc hữu tình.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, tự hành tịnh giới Ba la mật đa, cũng dạy người hành tịnh giới Ba la mật đa. Tự hành an nhẫn Ba la mật đa, cũng dạy người hành an nhẫn Ba la mật đa. Tự hành tinh tấn Ba la mật đa, cũng dạy người hành tinh tấn Ba la mật đa.

Tự hành tịnh lự Ba la mật đa, cũng dạy người hành tịnh lự Ba la mật đa. Tự hành bát nhã Ba la mật đa, cũng dạy người hành bát nhã Ba la mật đa. Đại Bồ Tát ấy, làm các việc này rồi, đem thiện căn ấy cho các hữu tình cùng có như nhau, hồi hướng sở cầu là nghiêm tịnh Cõi Phật, khiến mau viên mãn, lợi lạc hữu tình.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần