Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Chín - Phẩm Vô Trụ - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM CHÍN

PHẨM VÔ TRỤ  

PHẦN BA  

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi nhĩ giới, cho đến chẳng nên trụ nơi các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì tỷ giới, tánh của tỷ giới là không, cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không.

Bạch Thế Tôn! Tỷ giới ấy chẳng phải là cái không của tỷ giới. Cái không của tỷ giới ấy chẳng phải là tỷ giới. Tỷ giới chẳng lìa không, không chẳng lìa tỷ giới. Tỷ giới tức là không, không tức là tỷ giới. Hương giới, cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi tỷ giới, cho đến chẳng nên trụ nơi các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì thiệt giới, tánh của thiệt giới là không, cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không.

Bạch Thế Tôn! Thiệt giới ấy chẳng phải là cái không của thiệt giới, cái không của thiệt giới ấy chẳng phải là thiệt giới. Thiệt giới chẳng lìa không, không chẳng lìa thiệt giới. Thiệt giới tức là không, không tức là thiệt giới. Vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi thiệt giới, cho đến chẳng nên trụ nơi các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì thân giới, tánh của thân giới là không, cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không.

Bạch Thế Tôn! Thân giới ấy chẳng phải là cái không của thân giới, cái không của thân giới ấy chẳng phải là thân giới. Thân giới chẳng lìa không, không chẳng lìa thân giới. Thân giới tức là không, không tức là thân giới. Xúc giới, cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi thân giới, cho đến chẳng nên trụ nơi các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì ý giới, tánh của ý giới là không, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không.

Bạch Thế Tôn! Ý giới ấy, chẳng phải là cái không của ý giới, cái không của ý giới ấy chẳng phải là ý giới. Ý giới chẳng lìa không, không chẳng lìa ý giới. Ý giới tức là không, không tức là ý giới. Pháp giới, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi ý giới, cho đến chẳng nên trụ nơi các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi địa giới, chẳng nên trụ nơi thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì địa giới và tánh của địa giới là không. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới, và tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không.

Bạch Thế Tôn! Địa giới ấy, chẳng phải là cái không của địa giới, cái không của địa giới ấy, chẳng phải là địa giới. Địa giới chẳng lìa không, không chẳng lìa địa giới. Địa giới tức là không, không tức là địa giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi địa giới, chẳng nên trụ nơi thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi Thánh đế khổ, chẳng nên trụ nơi Thánh đế tập, diệt, đạo.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì Thánh đế khổ và tánh của Thánh đế khổ là không, Thánh đế tập, diệt, đạo, và tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không.

Bạch Thế Tôn! Thánh đế khổ ấy, chẳng phải là cái không của Thánh đế khổ, cái không của Thánh đế khổ ấy, chẳng phải là Thánh đế khổ. Thánh đế khổ chẳng lìa không, không chẳng lìa Thánh đế khổ. Thánh đế khổ tức là không, không tức là Thánh đế khổ. Thánh đế tập, diệt, đạo cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi Thánh đế khổ, cũng chẳng nên trụ nơi Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi vô minh, chẳng nên trụ nơi hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì vô minh và tánh của vô minh là không, cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tánh của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không.

Bạch Thế Tôn!  Vô minh ấy, chẳng phải là cái không của vô minh, cái không của vô minh ấy, chẳng phải là vô minh. Vô minh chẳng lìa không, không chẳng lìa vô minh. Vô minh tức là không, không tức là vô minh. Hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi vô minh, cho đến chẳng nên trụ nơi lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi bốn tịnh lự, chẳng nên trụ nơi bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì bốn tịnh lự và tánh của bốn tịnh lự là không, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không.

Bạch Thế Tôn! Bốn tịnh lự ấy, chẳng phải là cái không của bốn tịnh lự, cái không của bốn tịnh lự ấy, chẳng phải là bốn tịnh lự. Bốn tịnh lự chẳng lìa không, không chẳng lìa bốn tịnh lự. Bốn tịnh lự tức là không, không tức là bốn tịnh lự. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi bốn tịnh lự, chẳng nên trụ nơi bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi năm loại mắt, chẳng nên trụ nơi sáu phép thần thông.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì năm loại mắt và tánh của năm loại mắt là không, sáu phép thần thông và tánh của sáu phép thần thông là không.

Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt ấy, chẳng phải là cái không của năm loại mắt, cái không của năm loại mắt ấy, chẳng phải là năm loại mắt. Năm loại mắt chẳng lìa không, không chẳng lìa năm loại mắt. Năm loại mắt tức là không, không tức là năm loại mắt. Sáu phép thần thông cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi năm loại mắt, chẳng nên trụ nơi sáu phép thần thông.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi bố thí Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì bố thí Ba la mật đa và tánh của bố thí Ba la mật đa là không, cho đến bát nhã Ba la mật đa và tánh của bát nhã Ba la mật đa là không.

Bạch Thế Tôn! Bố Thí Ba la mật đa ấy, chẳng phải là cái không của bố thí Ba la mật đa, cái không của bố thí Ba la mật đa ấy, chẳng phải là bố thí Ba la mật đa. Bố thí Ba la mật đa chẳng lìa không, không chẳng lìa bố thí Ba la mật đa. Bố thí Ba la mật đa tức là không, không tức là bố thí Ba la mật đa. Tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi bố thí Ba la mật đa, cho đến chẳng nên trụ nơi bát nhã Ba la mật đa.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi bốn niệm trụ, chẳng nên trụ nơi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì bốn niệm trụ và tánh của bốn niệm trụ là không, cho đến tám chi thánh đạo và tánh của tám chi thánh đạo là không.

Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ ấy, chẳng phải là cái không của bốn niệm trụ, cái không của bốn niệm trụ ấy, chẳng phải là bốn niệm trụ. Bốn niệm trụ chẳng lìa không, không chẳng lìa bốn niệm trụ. Bốn niệm trụ tức là không, không tức là bốn niệm trụ. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi bốn niệm trụ, cho đến chẳng nên trụ nơi tám chi thánh đạo.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi mười lực của Phật, chẳng nên trụ nơi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì mười lực của Phật và tánh của mười lực của Phật là không, cho đến trí nhất thiết tướng và tánh của trí nhất thiết tướng là không.

Bạch Thế Tôn! Mười lực của Phật ấy, chẳng phải là cái không của mười lực của Phật, cái không của mười lực của Phật ấy, chẳng phải là mười lực của Phật. Mười lực của Phật chẳng lìa không, không chẳng lìa mười lực của Phật. Mười lực của Phật tức là không, không tức là mười lực của Phật. Bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi mười lực của Phật, cho đến chẳng nên trụ nơi trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ vào các văn tự, chẳng nên trụ vào sự dẫn giải của các văn tự, hoặc một lời dẫn giải, hoặc hai lời dẫn giải, hoặc nhiều lời dẫn giải.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì các văn tự và tánh của các văn tự là không, sự dẫn giải của các văn tự và tánh của sự dẫn giải của các văn tự là không.

Bạch Thế Tôn! Các văn tự ấy, chẳng phải là cái không của các văn tự, cái không của các văn tự ấy, chẳng phải là các văn tự. Các văn tự chẳng lìa không, không chẳng lìa các văn tự. Các văn tự tức là không, không tức là các văn tự. Sự dẫn giải của các văn tự cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng nên trụ vào các văn tự, chẳng nên trụ vào sự dẫn giải của các văn tự.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ vào các pháp thường, vô thường hoặc chẳng nên trụ vào các pháp lạc hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, tịch tịnh hoặc bất tịch tịnh, viễn ly hoặc bất viễn ly.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì các pháp thường, vô thường và tánh của các pháp thường, vô thường là không, cho đến các pháp viễn ly, bất viễn ly và tánh của các pháp viễn ly, bất viễn ly là không.

Bạch Thế Tôn! Các pháp thường, vô thường ấy chẳng phải là cái không của các pháp thường, vô thường. Cái không của các pháp thường, vô thường ấy chẳng phải là các pháp thường, vô thường. Các pháp thường, vô thường chẳng lìa không, không chẳng lìa các pháp thường, vô thường. Các pháp thường, vô thường tức là không, không tức là các pháp thường, vô thường. Các pháp khổ lạc cho đến các pháp viễn ly, bất viễn ly cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ vào các pháp thường, vô thường, cho đến chẳng nên trụ nơi các pháp viễn ly, bất viễn ly.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ vào chơn như, chẳng nên trụ vào pháp giới, pháp tánh, thật tế, tánh bình đẳnh, tánh ly sanh.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì chơn như và tánh của chơn như là không, cho đến tánh ly sanh và tánh của tánh ly sanh là không.

Bạch Thế Tôn! Chơn như ấy chẳng phải là cái không của chơn như, cái không của chơn như ấy chẳng phải là chơn như. Chơn như chẳng lìa không, không chẳng lìa chơn như. Chơn như tức là không, không tức là chơn như. Pháp giới cho đến tánh ly sanh cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ vào chơn như, cho đến chẳng nên trụ vào tánh ly sanh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ vào tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng nên trụ vào tất cả pháp môn Tam Ma Địa.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì tất cả pháp môn Đà La Ni và tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không, tất cả pháp môn Tam Ma Địa và tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không.

Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp môn Đà La Ni ấy chẳng phải là cái không của tất cả pháp môn Đà La Ni, cái không của tất cả pháp môn Đà La Ni ấy chẳng phải là tất cả pháp môn Đà La Ni.

Tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng lìa không, không chẳng lìa các pháp tất cả pháp môn Đà La Ni. Tất cả pháp môn Đà La Ni tức là không, không tức là tất cả pháp môn Đà La Ni. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa cũng lại như vậy.

Vì vậy, Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ vào tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng nên trụ vào tất cả pháp môn Tam Ma Địa.

Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát, không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, cho nên tâm liền trụ vào sắc, trụ vào thọ, tưởng, hành, thức. Vì do sự trụ này nên đối với sắc khởi lên sự gia hạnh, đối với thọ, tưởng, hành, thức khởi lên sự gia hạnh.

Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào nhãn xứ, trụ vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Vì do sự trụ này, nên đối với nhãn xứ khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với ý xứ khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào sắc xứ, trụ vào thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Vì do sự trụ này, nên đối với sắc xứ, khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với pháp xứ khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng phải thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào nhãn giới, trụ vào sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Vì do sự trụ này, nên đối với nhãn giới khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào nhĩ giới, trụ vào thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Vì do sự trụ này, nên đối với nhĩ giới khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào tỷ giới, trụ vào hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Vì do sự trụ này, nên đối với tỷ giới khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào thiệt giới, trụ vào vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Vì do sự trụ này, nên đối với thiệt giới khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào thân giới, trụ vào xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Vì do sự trụ này, nên đối với thân giới khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào ý giới, trụ vào Pháp Giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Vì do sự trụ này, nên đối với ý giới khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào địa giới, trụ vào thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Vì do sự trụ này, nên đối với địa giới khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với thức giới khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào Thánh đế khổ, trụ vào Thánh đế tập, diệt, đạo.

Vì do sự trụ này, nên đối với Thánh đế khổ khởi lên sự gia hạnh, đối với Thánh đế tập, diệt, đạo khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào vô minh, trụ vào hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Vì do sự trụ này, nên đối với vô minh khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào bốn tịnh lự, trụ vào bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Vì do sự trụ này, nên đối với bốn tịnh lự khởi lên sự gia hạnh, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào năm loại mắt, trụ vào sáu phép thần thông. Vì do sự trụ này, nên đối với năm loại mắt khởi lên sự gia hạnh, đối với sáu phép thần thông khởi lên sự gia hạnh.

Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào bố thí Ba la mật đa, trụ vào tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Vì do sự trụ này, nên đối với bố thí Ba la mật đa khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với bát nhã Ba la mật đa khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào bốn niệm trụ, trụ vào bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Vì do sự trụ này, nên đối với bốn niệm trụ khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với tám chi thánh đạo khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào mười lực của Phật, trụ vào bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Vì do sự trụ này, nên đối với mười lực của Phật khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với trí nhất thiết tướng khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào các văn tự, trụ vào sự dẫn giải của các văn tự, hoặc một lời dẫn giải, hoặc hai lời dẫn giải, hoặc nhiều lời dẫn giải.

Vì do sự trụ này, nên đối với văn tự khởi lên sự gia hạnh, đối với sự dẫn giải của các văn tự khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào các pháp thường, hoặc vô thường, trụ vào các pháp lạc, hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, tịch tịnh hoặc bất tịch tịnh, viễn ly hoặc bất viễn ly. Vì do sự trụ này, nên đối với các pháp thường, hoặc vô thường khởi lên sự gia hạnh, cho đến đối với các pháp viễn ly, bất viễn ly khởi lên sự gia hạnh.

Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, thì bị cái chấp ngã, ngã sở ràng buộc, quấy nhiễu, nên tâm liền trụ vào tất cả pháp môn Đà La Ni, trụ vào tất cả pháp môn Tam Ma Địa.

Vì do sự trụ này, nên đối với tất cả pháp môn Đà La Ni khởi lên sự gia hạnh, đối với tất cả pháp môn Tam Ma Địa khởi lên sự gia hạnh. Vì do sự gia hạnh này, nên chẳng thể nhiếp thọ bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể hoàn thành trí nhất thiết tướng.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì sắc chẳng nên nhiếp thọ. Nên thọ, tưởng, hành, thức chẳng nên nhiếp thọ. Sắc đã chẳng nên nhiếp thọ, thì liền chẳng phải sắc. thọ, tưởng, hành, thức đã chẳng nên nhiếp thọ, liền chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.

Vì sao vậy?

Vì bản tánh là không. Cho đến tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng nên nhiếp thọ, tất cả pháp môn Tam Ma Địa chẳng nên nhiếp thọ. pháp môn Đà La Ni đã chẳng nên nhiếp thọ, thì liền chẳng phải là pháp môn Đà La Ni. Pháp môn Tam Ma Địa đã chẳng nên nhiếp thọ, thì liền chẳng phải là pháp môn Tam Ma Địa.

Vì sao vậy?

Vì bản tánh là không. Cái nhiếp thọ, tu hành, viên mãn bát nhã Ba la mật đa, cũng chẳng nên nhiếp thọ. Như vậy, bát nhã Ba la mật đa chẳng nên nhiếp thọ, thì liền chẳng phải là bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao vậy?

Vì bản tánh là không. Như vậy, Đại Bồ Tát, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, nên dùng bản tánh không mà quán tất cả pháp. Khi khởi lên quán này, thì đối với tất cả pháp, tâm không sở hành, đó gọi là sự nhiếp thọ Tam Ma Địa của Đại Bồ Tát.

Tam Ma Địa này vi diệu, thù thắng, rộng lớn vô lượng, có khả năng tập hợp tác dụng vô biên, vô ngại, mà tất cả Thanh Văn, Ðộc Giác không có được. Trí nhất thiết tướng đã hoàn thành đó, cũng chẳng nên nhiếp thọ. Như vậy, trí nhất thiết tướng đã chẳng nên nhiếp thọ, thì liền chẳng phải là trí nhất thiết tướng.

Vì sao vậy?

Vì nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tản không, vô biến dị không, bản tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.

Vì sao vậy?

Bạch Thế Tôn! Trí nhất thiết tướng này chẳng phải thủ đắc tướng mà tu đắc.

Vì sao vậy?

Vì những cái thủ đắc tướng đều là phiền não! Tướng là những gì?

Đó là tướng sắc, tướng thọ, tưởng, hành, thức. Cho đến tướng của tất cả pháp môn Đà La Ni, tướng của tất cả pháp môn Tam Ma Địa. Ðối với các tướng này mà ai đắm vào, gọi là phiền não. Nếu ai thủ đắc tướng mà tu đắc trí nhất thiết tướng, thì người tu hành dõng mãnh, đối với trí nhất thiết trí, chẳng nên tín giải.

Tướng của tín giải ấy là những gì?

Đó là, đối với bát nhã Ba la mật đa, phát sanh lòng tin sâu xa, thanh tịnh. Do sức hiểu biết thù thắng mà tư duy, quán sát trí nhất thiết trí, không dùng tướng làm phương tiện, cũng chẳng phải dùng phi tướng làm phương tiện, vì tướng và phi tướng đều không thể thủ đắc.

Người tu hành dõng mãnh ấy, tuy do sức tín giải mà quay về với Phật Pháp, nên gọi là người tùy tín hành, nhưng có khả năng dùng bản tánh không mà ngộ nhập trí nhất thiết trí.

Ðã ngộ nhập rồi, chẳng thủ đắc tướng sắc, chẳng thủ đắc tướng thọ, tưởng, hành, thức, cho đến chẳng thủ đắc tướng tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng thủ đắc tướng tất cả pháp môn Tam Ma Địa.

Vì sao?

Vì tự tướng của tất cả pháp đều không, nên năng thủ, sở thủ đều chẳng thể nắm bắt được. Như vậy, người tu hành chẳng dùng nội đắc hiện quán mà quán trí nhất thiết trí, chẳng dùng ngoại đắc hiện quán mà quán trí nhất thiết trí, chẳng dùng nội ngoại đắc hiện quán mà quán trí nhất thiết trí, chẳng dùng vô trí đắc hiện quán mà quán trí nhất thiết trí, chẳng dùng dư đắc hiện quán mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng dùng bất đắc hiện quán mà quán trí nhất thiết trí.

Vì sao vậy?

Người tu hành dõng mãnh ấy, chẳng thấy sở quán là trí nhất thiết trí, chẳng thấy năng quán là bát nhã, chẳng thấy người quán và chỗ dựa vào để quán. Người tu hành dõng mãnh ấy, chẳng phải đối với nội sắc mà quán trí nhất thiết trí, chẳng phải đối với nội thọ, tưởng, hành, thức mà quán trí nhất thiết trí. Chẳng phải đối với ngoại sắc mà quán trí nhất thiết trí.

Chẳng phải đối với ngoại thọ, tưởng, hành, thức mà quán trí nhất thiết trí. Chẳng phải đối với nội, ngoại sắc mà quán trí nhất thiết trí, chẳng phải đối với nội, ngoại thọ, tưởng, hành, thức mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lìa sắc mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức mà quán trí nhất thiết trí.

Cho đến chẳng phải đối với tất cả pháp môn nội Đà La Ni mà quán trí nhất thiết trí, chẳng phải đối với tất cả pháp môn nội Tam Ma Địa mà quán trí nhất thiết trí, chẳng phải đối với tất cả pháp môn ngoại Đà La Ni mà quán trí nhất thiết trí, chẳng phải đối với tất cả pháp môn ngoại Tam Ma Địa mà quán trí nhất thiết trí.

Chẳng phải đối với tất cả pháp môn nội ngoại Đà La Ni mà quán trí nhất thiết trí, chẳng phải đối với tất cả pháp môn nội ngoại Tam Ma Địa mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng lìa tất cả pháp môn Đà La Ni mà quán trí nhất thiết trí, cũng chẳng lìa tất cả pháp môn Tam Ma Địa mà quán trí nhất thiết trí.

Vì sao?

Vì, hoặc nội, hoặc ngoại, hoặc nội, ngoại, hoặc lìa nội, ngoại đều chẳng thể nắm bắt được. Người tu hành dõng mãnh ấy, dùng các pháp môn lìa tướng như vậy v.v… đối với trí nhất thiết trí phát sanh tín giải sâu xa. Vì do tín giải này, nên đối với tất cả pháp, không thủ đắc đắm trước, vì thật tướng của các pháp chẳng thể nắm bắt được.

Như vậy, người tu hành dùng pháp môn lìa tướng đối với trí nhất thiết trí, đắc tín giải rồi, đối với tất cả pháp đều không thủ đắc tướng, cũng chẳng tư duy về cái vô tướng của các pháp, vì tướng, vô tướng của các pháp đều chẳng thể nắm bắt được.

Như vậy, người tu hành do sức thắng giải nên đối với tất cả pháp chẳng thủ, chẳng xả, vì trong thật tướng của pháp chẳng thủ, chẳng xả. Khi ấy, người tu hành kia, đối với sự tín giải của mình, cho đến đối với Niết Bàn, cũng chẳng thủ đắc đắm trước.

Vì sao?

Vì bản tánh của tất cả pháp đều là không, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát, bát nhã Ba la mật đa, cũng lại như vậy, đối với tất cả pháp, vì không có chỗ thủ đắc đắm trước, nên có khả năng từ bờ bên này qua bờ bên kia. Nếu đối với các pháp còn chút ít thủ đắc đắm trước, thì chẳng thể qua được bờ bên kia.

Vì vậy, khi Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên thủ đắc tất cả sắc, chẳng nên thủ đắc tất cả thọ, tưởng, hành, thức, vì tất cả pháp không có chỗ thủ đắc, cho đến chẳng thủ đắc tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng thủ đắc tất cả pháp môn Tam Ma Địa, vì tất cả pháp cũng đều không có cái thủ đắc.

Đại Bồ Tát ấy, tuy đối với tất cả sắc, tất cả thọ, tưởng, hành, thức, cho đến tất cả pháp môn Đà La Ni, tất cả pháp môn Tam Ma Địa, hoặc tổng, hoặc biệt, đều không có cái thủ đắc mà chỉ dùng bổn nguyện để tu hành bốn niệm trụ, cho đến tám chi thánh đạo, vì chưa viên mãn, và dùng bổn nguyện để tu chứng mười lực của Phật, cho đến trí nhất thiết tướng, vì chưa hoàn thành. Ở trong khoảng thời gian đó, hoàn toàn chẳng dùng không thủ đắc tất cả tướng mà nhập Niết Bàn.

Đại Bồ Tát ấy, tuy có khả năng viên mãn bốn niệm trụ, cho đến tám chi thánh đạo, và có khả năng hoàn thành mười lực của Phật, cho đến trí nhất thiết tướng mà chẳng thấy bốn niệm trụ, cho đến tám chi thánh đạo, và chẳng thấy mười lực của Phật, cho đến trí nhất thiết tướng.

Vì sao vậy?

Vì bốn niệm trụ ấy, tức chẳng phải bốn niệm trụ, cho đến tám chi thánh đạo, tức chẳng phải tám chi thánh đạo và mười lực của Phật, tức chẳng phải mười lực của Phật, cho đến trí nhất thiết tướng, tức chẳng phải trí nhất thiết tướng.

Vì tất cả pháp chẳng phải là pháp, cũng chẳng phải là phi pháp. Đại Bồ Tát ấy, khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, đối với tất cả pháp, tuy không có chỗ thủ đắc, mà có khả năng hoàn thành tất cả sự nghiệp.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần