Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Chín - Phẩm Vô Trụ - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM CHÍN

PHẨM VÔ TRỤ  

PHẦN HAI  

Bạch Thế Tôn! Đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là năm loại mắt, đây là sáu phép thần thông?

Bạch Thế Tôn! Cái danh năm loại mắt ấy v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao thế?

Vì cái nghĩa của danh năm loại mắt v.v… đã không có sở hữu, nên cái danh năm loại mắt … đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với ngã, hữu tình, cho đến cái biết, cái thấy, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là ngã, hữu tình, cho đến đây là cái biết, cái thấy?

Bạch Thế Tôn! Cái danh ngã ấy v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao thế?

Vì cái nghĩa của danh ngã v.v… đã không có sở hữu, nên cái danh ngã … đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với tùy niệm Phật, tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm giới, tùy niệm xả, tùy niệm thiên, tùy niệm hơi thở, tùy niệm nhàm chán, tùy niệm chết, tùy niệm thân, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là tùy niệm Phật, cho đến … đây là tùy niệm thân?

Bạch Thế Tôn! Cái danh tùy niệm Phật ấy v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao thế?

Vì cái nghĩa của danh tùy niệm Phật v.v… đã không có sở hữu, nên cái danh tùy niệm Phật … đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với tưởng vô thường, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng tất cả thế gian chẳng đáng vui, tưởng nhàm chán ăn uống, tưởng đoạn trừ, tưởng xa lìa, tưởng tịch diệt, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói, đây là tưởng vô thường, cho đến … đây là tưởng tịch diệt?

Bạch Thế Tôn! Cái danh tưởng vô thường ấy v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao thế?

Vì cái nghĩa của danh tưởng vô thường v.v… đã không có sở hữu, nên cái danh tưởng vô thường v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với không, vô tướng, vô nguyện, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là không, cho đến … đây là vô nguyện?

Bạch Thế Tôn! Cái danh không ấy v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao thế?

Vì cái nghĩa của danh không v.v… đã không có sở hữu, nên cái danh không v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói, đây là bố thí Ba la mật đa, cho đến … đây là bát nhã Ba la mật đa?

Bạch Thế Tôn! Cái danh bố thí Ba la mật đa ấy v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao thế?

Vì cái nghĩa của danh bố thí Ba la mật đa v.v… đã không có sở hữu, nên cái danh bố thí Ba la mật đa v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là bốn niệm trụ, cho đến … đây là tám chi Thánh đạo?

Bạch Thế Tôn! Cái danh bốn niệm trụ ấy v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao thế?

Vì cái nghĩa của danh bốn niệm trụ v.v… đã không có sở hữu, nên cái danh bốn niệm trụ v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là mười lực của Phật, cho đến … đây là trí nhất thiết tướng?

Bạch Thế Tôn! Cái danh mười lực của Phật ấy v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao thế?

Vì cái nghĩa của danh mười lực của Phật v.v… đã không có sở hữu, nên cái danh mười lực của Phật v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với sự như huyễn, như mộng, như bóng dáng, như tiếng vang, như bóng sáng, như hoa hư không, như bóng nắng, như ảo thành, như trò biến hóa, năm thủ uẩn v.v… con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là như huyễn v.v… năm thủ uẩn v.v…?

Bạch Thế Tôn! Cái danh như huyễn v.v… năm thủ uẩn ấy v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao thế?

Vì cái nghĩa của danh như huyễn v.v…, năm thủ uẩn v.v… đã không có sở hữu, nên cái danh như huyễn v.v…, năm thủ uẩn v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với tịch tịnh, viễn ly, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, tuyệt chư hý luận, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế, bình đẳng tánh, tánh ly sanh, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là tịch tịnh, cho đến … đây là tánh ly sanh?

Bạch Thế Tôn! Cái danh tịch tịnh ấy v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao thế?

Vì cái nghĩa của danh tịch tịnh v.v… đã không có sở hữu, nên cái danh tịch tịnh v.v… đếu không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với các pháp thường hoặc vô thường, lạc hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, không hoặc bất không, vô tướng hoặc hữu tướng, vô nguyện hoặc hữu nguyện, tịch tịnh hoặc bất tịch tịnh, viễn ly hoặc bất viễn ly, tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, sanh hoặc diệt, hữu vi hoặc vô vi, hữu lậu hoặc vộ lậu.

Thiện hoặc phi thiện, hữu tội hoặc vô tội, thế gian hoặc xuất thế gian, thuộc sanh tử hoặc pháp thuộc Niết Bàn, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là pháp thường, cho đến … đây là pháp thuộc Niết Bàn?

Bạch Thế Tôn! Cái danh thường ấy v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao thế?

Vì cái nghĩa của danh thường v.v… đã không có sở hữu, nên cái danh thường v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với các pháp quá khứ, vị lai hoặc hiện tại, thiện, bất thiện hoặc vô ký, sự ràng buộc ở Cõi Dục, sự ràng buộc ở Cõi Sắc hoặc sự ràng buộc ở Cõi Vô Sắc, học, vô học hoặc phi học, phi vô học, kiến sở đoạn, tu sở đoạn hoặc phi sở đoạn, tại nội, tại ngoại hoặc tại lưỡng gian, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là pháp quá khứ cho đến … đây là tại lưỡng gian?

Bạch Thế Tôn! Cái danh quá khứ ấy v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao thế?

Vì cái nghĩa của danh quá khứ v.v… đã không có sở hữu, nên cái danh quá khứ v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và chư Bồ Tát, Thanh Văn Tăng v.v… trong vô số Thế Giới Chư Phật ở mười phương, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là mười phương Thế Giới, cho đến … đây là Thanh Văn Tăng v.v…?

Bạch Thế Tôn! Cái danh mười phương Thế Giới ấy v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao thế?

Vì cái nghĩa của danh mười phương Thế Giới v.v… đã không có sở hữu, nên cái danh mười phương Thế Giới v.v… đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Đối với các pháp đã nói như trên, con chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là Đại Bồ Tát, đây là bát nhã Ba la mật đa?

Bạch Thế Tôn! Đối với Đại Bồ Tát, và đối với bát nhã Ba la mật đa, con đã chẳng đắc, chẳng thấy, thì tại sao khiến con đem pháp tương ưng bát nhã Ba la mật đa dạy bảo, trao truyền cho các Đại Bồ Tát. Cho nên, nếu đem pháp ấy mà dạy bảo, trao truyền cho các Đại Bồ Tát, thì ắt sẽ có sự hối tiếc.

Bạch Thế Tôn! Các pháp do nhân duyên hòa hợp đặt bày ra giả danh Đại Bồ Tát và bát nhã Ba la mật đa. Hai giả danh này, đối với năm uẩn, bất khả thuyết. Đối với mười hai xứ, mười tám giới, sáu giới, bốn Thánh đế, mười hai duyên khởi, bất khả thuyết.

Đối với tham, sân si, tất cả triền kiết, tùy miên, kiến thủ, bất thiện căn v.v… bất khả thuyết. Đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định Vô Sắc, bất khả thuyết. Đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông, bất khả thuyết. Đối với ngã, hữu tình, cho đến … cái biết, cái thấy, bất khả thuyết.

Đối với mười tùy niệm, mười tưởng, bất khả thuyết. Đối với không, vô tướng, vô nguyện, sáu phép Ba la mật đa, bất khả thuyết. Đối với Bốn Niệm Trụ cho đến … tám chi Thánh đạo, bất khả thuyết.

Đối với mười lực của Phật, cho đến … trí nhất thiết tướng, bất khả thuyết. Đối với sự như huyễn, cho đến như sự biến hóa, năm thủ uẩn v.v… bất khả thuyết. Đối với tịch tịnh, viễn ly, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, tuyệt chư hý luận, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, bất khả thuyết.

Đối với pháp thường, vô thường, cho đến pháp thuộc sanh tử, thuộc Niết Bàn, bất khả thuyết. Đối với pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, cho đến … pháp tại nội, tại ngoại, tại lưỡng gian, bất khả thuyết. Đối với Phật, Bồ Tát hoặc Thanh Văn Tăng v.v… trong vô số Thế Giới ở mười phương bất khả thuyết.

Vì sao thế?

Vì sự tập hợp, phân tán của các pháp như trên đã nói, đều chẳng thể đắc, chẳng thể thấy vậy.

Bạch Thế Tôn! Như trên đã nói, cái danh năm uẩn v.v… không cách nào có thể nói được. Như vậy, cái danh Đại Bồ Tát, và bát nhã Ba la mật đa cũng không cách nào có thể nói được. Như cái danh giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, không cách nào có thể nói được. Như vậy, cái danh Đại Bồ Tát, và bát nhã Ba la mật đa, cũng không cách nào có thể nói được.

Như Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, Ðộc Giác, Như Lai và cái danh của các pháp ấy, không cách nào có thể nói được. Như vậy, cái danh Đại Bồ Tát, và bát nhã Ba la mật đa, cũng không cách nào có thể nói được.

Bạch Thế Tôn! Như tất cả, hoặc hữu danh hoặc vô danh, đều không cách nào có thể nói được. Như vậy, cái danh Đại Bồ Tát, và cái danh Đại bát nhã Ba la mật đa, cũng không cách nào có thể nói được.

Vì sao thế?

Vì cái danh các pháp như vậy đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Vì sao?

Vì cái nghĩa của các danh ấy, đã không có sở hữu, nên các danh ấy đều không có chỗ trụ, cũng chẳng phải chẳng có chỗ trụ.

Bạch Thế Tôn! Vì con y cứ vào nghĩa ấy, nên đối với các pháp chẳng đắc, chẳng thấy, hoặc tập hợp, hoặc phân tán, thì tại sao có thể nói đây là cái danh Đại Bồ Tát, đây là cái danh bát nhã Ba la mật đa?

Bạch Thế Tôn! Đối với hai cái, hoặc nghĩa, hoặc danh, con đã chẳng đắc, chẳng thấy, thì tại sao khiến con đem pháp tương ưng bát nhã Ba la mật đa dạy bảo, trao truyền cho các Đại Bồ Tát?

Vì vậy, nếu đem pháp này dạy bảo, trao truyền cho các Đại Bồ Tát, thì ắt sẽ có sự hối tiếc.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát được nghe tướng trạng như vậy, khi thuyết bát nhã Ba la mật đa, tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng lo âu, hối hận. Tâm ấy chẳng kinh hoàng, chẳng hãi hùng, chẳng sợ sệt, nên biết Đại Bồ Tát ấy, nhất định đã được an trụ bực bất thối, lấy vô sở trụ làm phương tiện để trụ.

Lúc bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng nên trụ nơi sắc, chẳng nên trụ nơi thọ, tưởng, hành, thức.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì Sắc, tánh của sắc là không. Thọ, tưởng, hành, thức, và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không.

Bạch Thế Tôn! Sắc ấy chẳng phải là không sắc, không sắc ấy chẳng phải là sắc, sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Vì vậy, Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi sắc, chẳng nên trụ nơi thọ, tưởng, hành, thức.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi nhãn xứ, chẳng nên trụ nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì nhãn xứ, tánh của nhãn xứ là không, cho đến ý xứ, tánh của ý xứ là không.

Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ ấy chẳng phải là cái không nhãn xứ, cái không nhãn xứ ấy chẳng phải là nhãn xứ. Nhãn xứ chẳng lìa không, không chẳng lìa nhãn xứ. Nhãn xứ tức là không, không tức là nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nhãn xứ, cho đến chẳng nên trụ ý xứ.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi sắc xứ, chẳng nên trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì Sắc xứ, tánh của sắc xứ là không cho đến pháp xứ, tánh của pháp xứ là không.

Bạch Thế Tôn! Sắc xứ ấy, chẳng phải là cái không của sắc xứ, cái không của sắc xứ ấy chẳng phải là sắc xứ. Sắc xứ chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc xứ. Sắc xứ tức là không, không tức là sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng nên trụ nơi sắc xứ, cho đến chẳng nên trụ nơi pháp xứ.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Nhãn giới, tánh của nhãn giới là không, cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không.

Bạch Thế Tôn! Nhãn giới ấy chẳng phải là cái không của nhãn giới, cái không của nhãn giới ấy, chẳng phải là nhãn giới. Nhãn giới chẳng lìa không, không chẳng lìa nhãn giới. Nhãn giới tức là không, không tức là nhãn giới. Sắc giới, cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng lại như vậy.

Vì vậy, bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi nhãn giới, cho đến chẳng phải nên trụ nơi các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên trụ nơi nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì nhĩ giới, tánh của nhĩ giới là không, cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, tánh của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không.

Bạch Thế Tôn! Nhĩ giới ấy chẳng phải là cái không của nhĩ giới, cái không của nhĩ giới ấy chẳng phải là nhĩ giới, nhĩ giới chẳng lìa không, không chẳng lìa nhĩ giới. Nhĩ giới tức là không, không tức là nhĩ giới. Thanh giới, cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng lại như vậy.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần