Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Hai Mươi Bảy - Phẩm Cầu Bát Nhã - Phần Chín
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
HỘI ĐẦU
PHẨM HAI MƯƠI BẢY
PHẨM CẦU BÁT NHÃ
PHẦN CHÍN
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tỷ giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Chẳng nên lìa pháp tánh của tỷ giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của tỷ giới, hoặc pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Hoặc lìa pháp tánh của tỷ giới, hoặc lìa pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của tỷ giới, chẳng phải pháp tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Chẳng phải lìa pháp tánh của tỷ giới, chẳng phải lìa pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của tỷ giới, chẳng phải pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Chẳng phải lìa pháp tánh của tỷ giới, chẳng phải lìa pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tỷ giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Chẳng nên lìa pháp tánh của tỷ giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của thiệt giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Chẳng nên lìa pháp tánh của thiệt giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của thiệt giới, hoặc pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Hoặc lìa pháp tánh của thiệt giới, hoặc lìa pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của thiệt giới, chẳng phải pháp tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Chẳng phải lìa pháp tánh của thiệt giới, chẳng phải lìa pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của thiệt giới, chẳng phải pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Chẳng phải lìa pháp tánh của thiệt giới, chẳng phải lìa pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của thiệt giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Chẳng nên lìa pháp tánh của thiệt giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của thân giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Chẳng nên lìa pháp tánh của thân giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của thân giới, hoặc pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Hoặc lìa pháp tánh của thân giới, hoặc lìa pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của thân giới, chẳng phải pháp tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Chẳng phải lìa pháp tánh của thân giới, chẳng phải lìa pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của thân giới, chẳng phải pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Chẳng phải lìa pháp tánh của thân giới, chẳng phải lìa pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của thân giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Chẳng nên lìa pháp tánh của thân giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của ý giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Chẳng nên lìa pháp tánh của ý giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của ý giới, hoặc pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Hoặc lìa pháp tánh của ý giới, hoặc lìa pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của ý giới, chẳng phải pháp tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Chẳng phải lìa pháp tánh của ý giới, chẳng phải lìa pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của ý giới, chẳng phải pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Chẳng phải lìa pháp tánh của ý giới, chẳng phải lìa pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của ý giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Chẳng nên lìa pháp tánh của ý giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà cầu.
Kiều Thi Ca! bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của địa giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Chẳng nên lìa pháp tánh của địa giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của địa giới, hoặc pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Hoặc lìa pháp tánh của địa giới, hoặc lìa pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa.
Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của địa giới, chẳng phải pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Chẳng phải lìa pháp tánh của địa giới, chẳng phải lìa pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của địa giới, chẳng phải pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Chẳng phải lìa pháp tánh của địa giới, chẳng phải lìa pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của địa giới, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Chẳng nên lìa pháp tánh của địa giới mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà cầu.
Kiều Thi Ca! bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Thánh đế khổ, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo. Chẳng nên lìa pháp tánh của Thánh đế khổ mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của Thánh đế khổ, hoặc pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo. Hoặc lìa pháp tánh của Thánh đế khổ, hoặc lìa pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Thánh đế khổ, chẳng phải pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo. Chẳng phải lìa pháp tánh của Thánh đế khổ, chẳng phải lìa pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Thánh đế khổ, chẳng phải pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo. Chẳng phải lìa pháp tánh của Thánh đế khổ, chẳng phải lìa pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Thánh đế khổ, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo. Chẳng nên lìa pháp tánh của Thánh đế khổ mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo mà cầu.
Kiều Thi Ca! bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của vô minh, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Chẳng nên lìa pháp tánh của vô minh mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của vô minh, hoặc pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Hoặc lìa pháp tánh của vô minh, hoặc lìa pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của vô minh, chẳng phải pháp tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Chẳng phải lìa pháp tánh của vô minh, chẳng phải lìa pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của vô minh, chẳng phải pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Chẳng phải lìa pháp tánh của vô minh, chẳng phải lìa pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của vô minh, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Chẳng nên lìa pháp tánh của vô minh mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà cầu.
Kiều Thi Ca! bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của cái không nội, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác.
Cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh. Chẳng nên lìa pháp tánh của cái không nội mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của cái không nội, hoặc pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh. Hoặc lìa pháp tánh của cái không nội, hoặc lìa pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của cái không nội, chẳng phải pháp tánh của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác.
Cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh. Chẳng phải lìa pháp tánh của cái không nội, chẳng phải lìa pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của cái không nội, chẳng phải pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh. Chẳng phải lìa pháp tánh của cái không nội, chẳng phải lìa pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của cái không nội, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh. Chẳng nên lìa pháp tánh của cái không nội mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh mà cầu.
Kiều Thi Ca! bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của chân như, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Chẳng nên lìa pháp tánh của chân như mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của chân như, hoặc pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Hoặc lìa pháp tánh của chân như, hoặc lìa pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của chân như, chẳng phải pháp tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Chẳng phải lìa pháp tánh của chân như, chẳng phải lìa pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của chân như, chẳng phải pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Chẳng phải lìa pháp tánh của chân như, chẳng phải lìa pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của chân như, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Chẳng nên lìa pháp tánh của chân như mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bố thí Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Chẳng nên lìa pháp tánh của bố thí Ba la mật đa mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của bố thí Ba la mật đa, hoặc pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Hoặc lìa pháp tánh của bố thí Ba la mật đa, hoặc lìa pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của bố thí Ba la mật đa, chẳng phải pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Chẳng phải lìa pháp tánh của bố thí Ba la mật đa, chẳng phải lìa pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của bố thí Ba la mật đa, chẳng phải pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Chẳng phải lìa pháp tánh của bố thí Ba la mật đa, chẳng phải lìa pháp tánh của, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bố thí Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Chẳng nên lìa pháp tánh của bố thí Ba la mật đa mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn tịnh lự, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chẳng nên lìa pháp tánh của bốn tịnh lự mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của bốn tịnh lự, hoặc pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc lìa pháp tánh của bốn tịnh lự, hoặc lìa pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của bốn tịnh lự, chẳng phải pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chẳng phải lìa pháp tánh của bốn tịnh lự, chẳng phải lìa pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của bốn tịnh lự, chẳng phải pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chẳng phải lìa pháp tánh của bốn tịnh lự, chẳng phải lìa pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn tịnh lự, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chẳng nên lìa pháp tánh của bốn tịnh lự mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tám giải thoát, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Chẳng nên lìa pháp tánh của tám giải thoát mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của tám giải thoát, hoặc pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Hoặc lìa pháp tánh của tám giải thoát, hoặc lìa pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của tám giải thoát, chẳng phải pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Chẳng phải lìa pháp tánh của tám giải thoát, chẳng phải lìa pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của tám giải thoát, chẳng phải pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Chẳng phải lìa pháp tánh của tám giải thoát, chẳng phải lìa pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tám giải thoát, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Chẳng nên lìa pháp tánh của tám giải thoát mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo. Chẳng nên lìa pháp tánh của bốn niệm trụ mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của bốn niệm trụ, hoặc pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Hoặc lìa pháp tánh của bốn niệm trụ, hoặc lìa pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng phải pháp tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo. Chẳng phải lìa pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng phải lìa pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng phải pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Chẳng phải lìa pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng phải lìa pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn niệm trụ, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo. Chẳng nên lìa pháp tánh của bốn niệm trụ mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà cầu.
Kiều Thi Ca! bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp môn giải thoát không, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Chẳng nên lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát không mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của pháp môn giải thoát không, hoặc pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Hoặc lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát không, hoặc lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của pháp môn giải thoát không, chẳng phải pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Chẳng phải lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát không, chẳng phải lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của pháp môn giải thoát không, chẳng phải pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Chẳng phải lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát không, chẳng phải lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp môn giải thoát không, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Chẳng nên lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát không mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của năm loại mắt, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của sáu phép thần thông. Chẳng nên lìa pháp tánh của năm loại mắt mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của sáu phép thần thông mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của năm loại mắt, hoặc pháp tánh của sáu phép thần thông. Hoặc lìa pháp tánh của năm loại mắt, hoặc lìa pháp tánh của sáu phép thần thông.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của năm loại mắt, chẳng phải pháp tánh của sáu phép thần thông. Chẳng phải lìa pháp tánh của năm loại mắt, chẳng phải lìa pháp tánh của sáu phép thần thông.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của năm loại mắt, chẳng phải pháp tánh của sáu phép thần thông. Chẳng phải lìa pháp tánh của năm loại mắt, chẳng phải lìa pháp tánh của sáu phép thần thông.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của năm loại mắt, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của sáu phép thần thông. Chẳng nên lìa pháp tánh của năm loại mắt mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của sáu phép thần thông mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của mười lực Phật, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng. Chẳng nên lìa pháp tánh của mười lực Phật mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của mười lực Phật, hoặc pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Hoặc lìa pháp tánh của mười lực Phật, hoặc lìa pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của mười lực Phật, chẳng phải pháp tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng. Chẳng phải lìa pháp tánh của mười lực Phật, chẳng phải lìa pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của mười lực Phật, chẳng phải pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Chẳng phải lìa pháp tánh của mười lực Phật, chẳng phải lìa pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của mười lực Phật, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Chẳng nên lìa pháp tánh của mười lực Phật mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp không quên mất, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tánh luôn luôn xả. Chẳng nên lìa pháp tánh của pháp không quên mất mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tánh luôn luôn xả mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của pháp không quên mất, hoặc pháp tánh của tánh luôn luôn xả. Hoặc lìa pháp tánh của pháp không quên mất, hoặc lìa pháp tánh của tánh luôn luôn xả.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của pháp không quên mất, chẳng phải pháp tánh của tánh luôn luôn xả. Chẳng phải lìa pháp tánh của pháp không quên mất, chẳng phải lìa pháp tánh của tánh luôn luôn xả.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của pháp không quên mất, chẳng phải pháp tánh của tánh luôn luôn xả. Chẳng phải lìa pháp tánh của pháp không quên mất, chẳng phải lìa pháp tánh của tánh luôn luôn xả.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của pháp không quên mất, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tánh luôn luôn xả. Chẳng nên lìa pháp tánh của pháp không quên mất mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tánh luôn luôn xả mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của trí nhất thiết, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Chẳng nên lìa pháp tánh của trí nhất thiết mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của trí nhất thiết, hoặc pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Hoặc lìa pháp tánh của trí nhất thiết, hoặc lìa pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của trí nhất thiết, chẳng phải pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Chẳng phải lìa pháp tánh của trí nhất thiết, chẳng phải lìa pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của trí nhất thiết, chẳng phải pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Chẳng phải lìa pháp tánh của trí nhất thiết, chẳng phải lìa pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của trí nhất thiết, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Chẳng nên lìa pháp tánh của trí nhất thiết mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa. Chẳng nên lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni, hoặc pháp tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa. Hoặc lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni, hoặc lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng phải pháp tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa. Chẳng phải lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng phải lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng phải pháp tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa. Chẳng phải lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng phải lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa. Chẳng nên lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa mà cầu.
Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Dự Lưu, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán. Chẳng nên lìa pháp tánh của Dự Lưu mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của Dự Lưu, hoặc pháp tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán. Hoặc lìa pháp tánh của Dự Lưu, hoặc lìa pháp tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Dự Lưu, chẳng phải pháp tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán. Chẳng phải lìa pháp tánh của Dự Lưu, chẳng phải lìa pháp tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Dự Lưu, chẳng phải pháp tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán. Chẳng phải lìa pháp tánh của Dự Lưu, chẳng phải lìa pháp tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Dự Lưu, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán. Chẳng nên lìa pháp tánh của Dự Lưu mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán mà cầu.
Kiều Thi Ca! bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả. Chẳng nên lìa pháp tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả mà cầu.
Vì sao?
Vì hoặc pháp tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả, hoặc pháp tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả. Hoặc lìa pháp tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả, hoặc lìa pháp tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả.
Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa. Hoặc cầu tất cả thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi là vô tướng.
Vì sao?
Kiều Thi Ca! Vì bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả, chẳng phải pháp tánh của Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả. Chẳng phải lìa pháp tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả, chẳng phải lìa pháp tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả.
Vì sao?
Vì tất cả các thứ ấy đều không có tánh sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng phải pháp tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả, chẳng phải pháp tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả. Chẳng phải lìa pháp tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả, chẳng phải lìa pháp tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả.
Vì vậy nên bát nhã Ba la mật đa mà Đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả, chẳng nên cầu nơi pháp tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả. Chẳng nên lìa pháp tánh của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả mà cầu, chẳng nên lìa pháp tánh của Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả mà cầu.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Chánh Tri Kiến - Phần Mười - Thọ
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Ba - Phẩm địa Ngục - Tập Hai Mươi Chín
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Năm Mươi Hai - Phẩm đại ái đạo Nhập Niết Bàn - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Phân Biệt Nghiệp Báo Lược - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Năm Mươi Ba - Phẩm Khéo Học - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Thế Bát Pháp
Phật Thuyết Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương - Phẩm Tám - Phẩm đà La Ni Kim Thắng