Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Mười Bốn - Phẩm áo Giáp đại Thừa - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
HỘI ĐẦU
PHẨM MƯỜI BỐN
PHẨM ÁO GIÁP ĐẠI THỪA
PHẦN BỐN
Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba la mật đa, không buộc, không mở. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa, không buộc, không mở.
Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì tánh của bố thí Ba la mật đa không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bố thí Ba la mật đa là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa là viễn ly, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của bố thí Ba la mật đa là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bố thí Ba la mật đa là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa là không, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của bố thí Ba la mật đa là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bố thí Ba la mật đa là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa là vô nguyện, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của bố thí Ba la mật đa là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bố thí Ba la mật đa là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa là vô diệt, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của bố thí Ba la mật đa là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bố thí Ba la mật đa là vô tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt, không buộc, không mở. Sáu phép thần thông, không buộc, không mở.
Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì tánh của năm loại mắt không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sáu phép thần thông không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là viễn ly, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sáu phép thần thông là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sáu phép thần thông là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sáu phép thần thông là không, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của năm loại mắt là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sáu phép thần thông là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sáu phép thần thông là vô nguyện, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của năm loại mắt là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sáu phép thần thông là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sáu phép thần thông là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là vô nhiễm, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sáu phép thần thông là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của năm loại mắt là vô tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sáu phép thần thông là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Bạch Thế Tôn! Mười lực của Phật, không buộc, không mở. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, không buộc, không mở.
Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì tánh của mười lực của Phật không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không có sở hữu, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của mười lực Phật là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của mười lực Phật là tịch tịnh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của mười lực Phật là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của mười lực Phật là vô tướng, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của mười lực Phật là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của mười lực Phật là vô sanh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của mười lực Phật là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của mười lực Phật là vô nhiễm, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của mười lực Phật là vô tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Bạch Thế Tôn! Chơn như, không buộc, không mở. Pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, định pháp, trụ pháp, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, thật tế, tánh vô vi, không buộc, không mở.
Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì tánh của chơn như không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, định pháp, trụ pháp, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, thật tế, tánh vô vi không có sở hữu, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của chơn như là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của pháp giới cho đến tánh của vô vi là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của chơn như là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của pháp giới cho đến tánh của vô vi là tịch tịnh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của chơn như là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của pháp giới cho đến tánh của vô vi là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của chơn như là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của pháp giới cho đến tánh của vô vi là vô tướng, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của chơn như là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của pháp giới cho đến tánh của vô vi là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của chơn như là vô sanh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của pháp giới cho đến tánh của vô vi là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của chơn như là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của pháp giới cho đến tánh của vô vi là vô diệt, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của chơn như là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của pháp giới cho đến tánh của vô vi là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của chơn như là vô tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của pháp giới cho đến tánh của vô vi là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Bạch Thế Tôn! bồ đề, không buộc, không mở.
Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì tánh của bồ đề không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bồ đề là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bồ đề là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bồ đề là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bồ đề là vô tướng, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của bồ đề là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bồ đề là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bồ đề là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bồ đề là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bồ đề là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Bạch Thế Tôn! Tát Đỏa, không buộc, không mở.
Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì tánh của Tát Đỏa không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Tát Đỏa là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Tát Đỏa là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Tát Đỏa là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Tát Đỏa là vô tướng, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của Tát Đỏa là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Tát Đỏa là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Tát Đỏa là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Tát Đỏa là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Tát Đỏa là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát, không buộc, không mở.
Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì tánh của Đại Bồ Tát không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Đại Bồ Tát là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Đại Bồ Tát là tịch tịnh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của Đại Bồ Tát là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Đại Bồ Tát là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Đại Bồ Tát là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Đại Bồ Tát là vô sanh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của Đại Bồ Tát là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Đại Bồ Tát là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của Đại Bồ Tát là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Bạch Thế Tôn! Quả vị giác ngộ cao tột, không buộc, không mở.
Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là tịch tịnh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là vô nguyện, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của quả vị giác ngộ cao tột là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Bạch Thế Tôn! Bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, không buộc, không mở.
Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là viễn ly, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là vô tướng, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là vô diệt, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Bạch Thế Tôn! Nói tóm lại, tất cả pháp đều không buộc, không mở.
Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Vì tánh của tất cả pháp không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô nguyện, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của tất cả pháp là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của tất cả pháp là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Khi ấy, Mãn Từ Tử hỏi Thiện Hiện: Tôn Giả nói sắc không buộc, không mở.
Nói thọ, tưởng, hành, thức v.v… không buộc, không mở chăng?
Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Đúng vậy!
Mãn Từ Tử hỏi: Những sắc nào là không buộc, không mở?
Những thọ, tưởng, hành, thức … nào là không buộc, không mở?
Thiện Hiện đáp: Sắc như huyễn là không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức như huyễn là không buộc, không mở. Sắc như mộng là không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức như mộng là không buộc, không mở. Sắc như ảnh tượng là không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức như ảnh tượng là không buộc, không mở.
Sắc như tiếng vang là không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức như tiếng vang là không buộc, không mở. Sắc như bóng sáng là không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức như bóng sáng là không buộc, không mở.
Sắc như hoa đốm giữa hư không là không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức như hoa đốm giữa hư không là không buộc, không mở. Sắc như bóng nắng là không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức như bóng nước là không buộc, không mở.
Sắc như ảo thành là không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức như ảo thành là không buộc, không mở. Sắc như việc biến hóa là không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là không buộc, không mở.
Vì sao?
Mãn Từ Tử! Vì tánh của sắc như huyễn … cho đến tánh của sắc như việc biến hóa không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn … cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa không có sở hữu, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc như huyễn … cho đến tánh của sắc như việc biến hóa là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn … cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là viễn ly, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc như huyễn … cho đến tánh của sắc như việc biến hóa là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn … cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là tịch tịnh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc như huyễn … cho đến tánh của sắc như việc biến hóa là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn … cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là không, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc như huyễn … cho đến tánh của sắc như việc biến hóa là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn … cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là vô tướng, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc như huyễn … cho đến tánh của sắc như việc biến hóa là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn … cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là vô nguyện, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc như huyễn … cho đến tánh của sắc như việc biến hóa là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn … cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là vô sanh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc như huyễn … cho đến tánh của sắc như việc biến hóa là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn … cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là vô diệt, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc như huyễn … cho đến tánh của sắc như việc biến hóa là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn… cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là vô nhiễm, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc như huyễn … cho đến tánh của sắc như việc biến hóa là vô tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức như huyễn … cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức như việc biến hóa là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Mãn Từ Tử! Sắc quá khứ không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức quá khứ không buộc, không mở. Sắc vị lai không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức vị lai không buộc, không mở. Sắc hiện tại không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức hiện tại không buộc, không mở.
Vì sao?
Mãn Từ Tử! Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại không có sở hữu, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là tịch tịnh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là không, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là vô nguyện, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là vô sanh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là vô nhiễm, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là vô tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai, hiện tại là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Mãn Từ Tử! Sắc thiện, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức thiện không buộc, không mở. Sắc bất thiện, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức bất thiện, không buộc, không mở. Sắc vô ký, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức vô ký, không buộc, không mở.
Vì sao?
Mãn Từ Tử! Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký, không có sở hữu, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là tịch tịnh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là không, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là vô tướng, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là vô nguyện, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là vô diệt, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là vô nhiễm, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc thiện, bất thiện, vô ký là vô tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức thiện, bất thiện, vô ký là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Mãn Từ Tử! Sắc hữu nhiễm, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm, không buộc, không mở. Sắc vô nhiễm, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức vô nhiễm, không buộc, không mở.
Sắc hữu tội, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức hữu tội, không buộc, không mở. Sắc vô tội, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức vô tội, không buộc, không mở.
Sắc hữu lậu, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức hữu lậu, không buộc, không mở. Sắc vô lậu, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức vô lậu, không buộc, không mở. Sắc tạp nhiễm, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức tạp nhiễm, không buộc, không mở.
Sắc thanh tịnh, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh, không buộc, không mở. Sắc thế gian, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức thế gian, không buộc, không mở. Sắc xuất thế gian, không buộc, không mở. Thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian, không buộc, không mở.
Vì sao?
Mãn Từ Tử! Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian không có sở hữu, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian không có sở hữu, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là viễn ly, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là viễn ly, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là tịch tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là tịch tịnh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là không, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là không, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là vô tướng, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là vô tướng, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là vô nguyện, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là vô nguyện, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là vô sanh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là vô sanh, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là vô diệt, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là vô diệt, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là vô nhiễm, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là vô nhiễm, nên không buộc, không mở.
Vì tánh của sắc hữu nhiễm cho đến tánh của sắc xuất thế gian là vô tịnh, nên không buộc, không mở. Vì tánh của thọ, tưởng, hành, thức hữu nhiễm cho đến tánh của thọ, tưởng, hành, thức xuất thế gian là vô tịnh, nên không buộc, không mở.
Mãn Từ Tử! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức như vậy không buộc, không mở, nên biết như vậy thì nhãn xứ cho đến ý xứ, sắc xứ cho đến pháp xứ. Nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Địa giới cho đến thức giới.
Thánh Đế khổ, cho đến Thánh Đế đạo. Vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh. Bốn tịnh lự cho đến bốn định vô sắc. Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh Đạo. Pháp môn giải thoát không cho đến pháp môn giải thoát vô nguyện. Bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa.
Năm loại mắt, sáu phép thần thông. Mười lực của Phật cho đến trí nhất thiết tướng. Chơn như cho đến vô vi. Bồ đề, Tát Đỏa, Đại Bồ Tát, quả vị giác ngộ cao tột, bậc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, tất cả pháp tương ưng với các pháp đó, lại cũng không buộc, không mở như vậy.
Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ Tát đối với pháp môn, không buộc, không mở như vậy, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên biết như thật. Đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bốn niệm trụ, bốn nhánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa, năm loại mắt, sáu phép thần thông, mười lực của Phật, bốn điều không sợ.
Bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không buộc, không mở như vậy, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên siêng năng tu học.
Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ Tát, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên an trú bốn tịnh lự, không buộc, không mở cho đến nên an trú trí nhất thiết tướng, không buộc, không mở. Lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên thành thục hữu tình, không buộc, không mở, nên nghiêm tịnh Cõi Phật, không buộc, không mở, nên thân cận cúng dường Chư Phật, không buộc, không mở, nên nghe, nhận lãnh pháp môn, không buộc, không mở.
Mãn Từ Tử! Đại Bồ Tát ấy, thường chẳng xa lìa Chư Phật Thế Tôn, không buộc, không mở. Thường chẳng xa lìa năm loại mắt thanh tịnh, không buộc, không mở. Thường chẳng xa lìa sáu phép thần thông thù thắng, không buộc, không mở. Thường chẳng xa lìa pháp môn Đà La Ni, không buộc, không mở. Thường chẳng xa lìa pháp môn Tam Ma Địa, không buộc, không mở.
Mãn Từ Tử! Đại Bồ Tát ấy sẽ phát sanh trí đạo tướng, không buộc, không mở. Sẽ chứng đắc trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng, không buộc, không mở. Sẽ chuyển pháp luân, không buộc, không mở. Sẽ dùng pháp ba thừa, không buộc, không mở, an lập các hữu tình, không buộc, không mở.
Này Mãn Từ Tử! Nếu Đại Bồ Tát tu hành sáu phép Ba la mật đa, không buộc, không mở, thì sẽ chứng đắc, không buộc, không mở, vì tất cả pháp không có sở hữu, viễn ly, tịch tịnh, không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh đều không buộc, không mở.
Mãn Từ Tử! Nên biết, Đại Bồ Tát ấy, gọi là người mặc áo giáp Đại Thừa không buộc, không mở.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
CÂU CHUYỆN HOÀ THƯỢNG KIM BÍCH PHONG
Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng đại Tập Hiền Hộ Bồ Tát - Phẩm Mười Sáu - Phẩm Phụng Sự Pháp Sư
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Năm - Phẩm Song - Kinh Ngưu Giác Sa La Lâm
Phật Thuyết Kinh Văn Thù Sư Lợi Tịnh Luật - Phẩm Bốn - Phẩm đạo Môn
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh đại Phú
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Tám Mươi - Phẩm đạo Sĩ - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Sáu Mươi Mốt - Kinh Sáng Tạo Muôn Vật