Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Mười Tám - Phẩm Vô Sở đắc - Phần Mười Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Hậu Tần
HỘI ĐẦU
PHẨM MƯỜI TÁM
PHẨM VÔ SỞ ĐẮC
PHẦN MƯỜI BA
Xá Lợi Tử! Bản tánh của năm loại mắt là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là năm loại mắt.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của sáu phép thần thông là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là sáu phép thần thông.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của mười lực Phật là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là mười lực của Phật.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của trí nhất thiết là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là trí nhất thiết.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của pháp không quên mất là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là pháp không quên mất.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của tánh luôn luôn xả là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tánh luôn luôn xả.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tất cả pháp môn Đà La Ni.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là tất cả pháp môn Tam Ma Địa.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của Bậc Cực Hỷ là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là Bậc Cực Hỷ.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của Bậc Ly Cấu, Bậc Phát Quang, Bậc Diệm Tuệ, Bậc Cực Nan Thắng, Bậc Hiện Tiền, Bậc Viễn Hành, Bậc Bất Động, Bậc Thiện Tuệ, Bậc Pháp Vân là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là Bậc Ly Cấu cho đến Bậc Pháp Vân.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của Bậc phàm phu là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là Bậc phàm phu.
Xá Lợi Tử! Bản tánh củA Bậc Chủng Tánh, Bậc Ðệ Bát, Bậc Cụ Kiến, Bậc Bạc, Bậc Ly Dục, Bậc Dĩ Biện, Bậc Ðộc Giác, Bậc Bồ Tát, Bậc Như Lai là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là Bậc Chủng tánh cho đến Bậc Như Lai.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của Thanh Văn thừa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là Thanh Văn thừa.
Xá Lợi Tử! Bản tánh của Ðộc giác thừa, đại thừa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì chẳng thể bày ra nào là sanh, nào là diệt, nào là trụ, nào là dị. Do duyên cớ này, nên nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là Ðộc giác thừa, đại thừa.
Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói nếu là rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng thể gọi là sắc v.v… vì pháp không, vô sanh, bất khả thuyết.
Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn Giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói, tôi đâu có thể dùng bát nhã Ba la mật đa rốt ráo chẳng sanh, để dạy bảo trao truyền cho các Đại Bồ Tát rốt ráo chẳng sanh?
Xá Lợi Tử! Rốt ráo chẳng sanh tức là bát nhã Ba la mật đa. Bát nhã Ba la mật đa tức là rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì rốt ráo chẳng sanh cùng với bát nhã Ba la mật đa không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Rốt ráo chẳng sanh tức là Đại Bồ Tát. Đại Bồ Tát tức là rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì rốt ráo chẳng sanh cùng với Đại Bồ Tát không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là tôi đâu có thể dùng bát nhã Ba la mật đa rốt ráo chẳng sanh để dạy bảo trao truyền cho các Đại Bồ Tát rốt ráo chẳng sanh.
Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói là lìa rốt ráo chẳng sanh cũng không có Đại Bồ Tát nào có thể tu hành quả vị giác ngộ cao tột?
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy bát nhã Ba la mật đa khác với rốt ráo chẳng sanh, cũng chẳng thấy Đại Bồ Tát khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì hoặc bát nhã Ba la mật đa hoặc Đại Bồ Tát cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy sắc khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì sắc cho đến thức cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy nhãn xứ khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì nhãn xứ cho đến ý xứ cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy sắc xứ khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì sắc xứ cho đến pháp xứ cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy nhãn giới khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy nhĩ giới khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì nhĩ giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy tỷ giới khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì tỷ giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy thiệt giới khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì thiệt giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy thân giới khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì thân giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy ý giới khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì ý giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy địa giới khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì địa giới cho đến thức giới cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy Thánh đế khổ khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy Thánh đế tập, diệt, đạo khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy vô minh khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy cái không nội khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới.
Cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy bố thí Ba la mật đa khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì Bố Thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy bốn tịnh lự khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy tám giải thoát khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì tám giải thoát cho đến mười biến xứ cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy bốn niệm trụ khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy pháp môn giải thoát không khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy năm loại mắt khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy sáu phép thần thông khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy mười lực của Phật khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì mười lực của Phật cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy trí nhất thiết khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy pháp không quên mất khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy tánh luôn luôn xả khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy tất cả pháp môn Đà La Ni khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy tất cả pháp môn Tam Ma Địa khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì tất cả pháp môn Đà La Ni, tất cả pháp môn Tam Ma Địa cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy Bậc Cực Hỷ khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy Bậc Ly Cấu, Bậc Phát Quang, Bậc Diệm Tuệ, Bậc Cực Nan Thắng, Bậc Hiện Tiền, Bậc Viễn Hành, Bậc Bất Động, Bậc Thiện Tuệ, Bậc Pháp Vân khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì Bậc Cực Hỷ cho đến Bậc Pháp Vân cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy Bậc phàm phu khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy Bậc Chủng Tánh, Bậc Ðệ Bát, Bậc Cụ Kiến, Bậc Bạc, Bậc Ly Dục, Bậc Dĩ Biện, Bậc Ðộc Giác, Bậc Bồ Tát, Bậc Như Lai khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì Bậc phàm phu cho đến Bậc Như Lai cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy Thanh Văn thừa khác với rốt ráo chẳng sanh. Cũng chẳng thấy Ðộc giác thừa, đại thừa khác với rốt ráo chẳng sanh.
Vì sao?
Vì Thanh Văn thừa, Ðộc giác thừa, đại thừa cùng với rốt ráo chẳng sanh không hai, không hai phần.
Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói lìa rốt ráo chẳng sanh không có Bồ Tát nào có thể tu hành quả vị Giác Ngộ cao tột.
Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại đáp lời Xá Lợi Tử: Như Tôn Giả đã hỏi, vì duyên cớ gì mà nói là nếu Đại Bồ Tát nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh hoàng, chẳng hãi hùng, chẳng sợ sệt, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc, nên biết đó là Đại Bồ Tát có khả năng tu hành bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy các pháp có giác, có dụng mà thấy tất cả pháp như sự huyễn, như cảnh mộng, như ảnh tượng, như tiếng vang, như bóng sáng, như bóng nước, như hoa hư không, như ảo thành, như trò biến hóa, đều chẳng phải thật có. Nghe nói bản tánh của các pháp đều không, trong lòng rất hoan hỷ.
Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là nếu Đại Bồ Tát nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh hoàng, chẳng hãi hùng, chẳng sợ sệt, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc thì nên biết đó là Đại Bồ Tát có khả năng tu hành bát nhã Ba la mật đa.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - Phẩm Ba - Phẩm Thí Dụ - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Lục Tự Chú Vương
Phật Thuyết Kinh Tứ Thập Nhị Chương - Chương Hai - Trừ Dục Vọng, Dứt Mong Cầu
Phật Thuyết Kinh Chiêm Sát Thiện ác Nghiệp Báo - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật - Phần Mười Chín - Pháp Giới Thông Hóa
Phật Thuyết Kinh Phổ Diệu - Phẩm Hai Mươi Tám - Phẩm ưu đà Da