Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Mười Chín - Phẩm Quán Hạnh - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
HỘI ĐẦU
PHẨM MƯỜI CHÍN
PHẨM QUÁN HẠNH
PHẦN HAI
Bạch Thế Tôn! bố thí Ba la mật đa là pháp chẳng sanh thì chẳng phải là bố thí Ba la mật đa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa chẳng sanh, thì chẳng phải là Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Vì sao?
Vì bố thí Ba la mật đa cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên bố thí Ba la mật đa chẳng sanh, thì chẳng phải là bố thí Ba la mật đa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa chẳng sanh, thì chẳng phải là Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Bạch Thế Tôn! Bốn Tịnh Lự chẳng sanh thì chẳng phải là bốn tịnh lự. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng sanh, thì chẳng phải là Bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Vì sao?
Vì bốn tịnh lự cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên bốn tịnh lự chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn tịnh lự. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Bạch Thế Tôn! Tám giải thoát chẳng sanh thì chẳng phải là tám giải thoát. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Vì sao?
Vì tám giải thoát cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên tám giải thoát chẳng sanh, thì chẳng phải là tám giải thoát. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng sanh, thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ chẳng sanh thì chẳng phải là bốn niệm trụ. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Vì sao?
Vì bốn niệm trụ cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên bốn niệm trụ chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn niệm trụ. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Bạch Thế Tôn! Pháp môn giải thoát không chẳng sanh thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Vì sao?
Vì pháp môn giải thoát không cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên pháp môn giải thoát không chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt chẳng sanh thì chẳng phải là năm loại mắt. Sáu phép thần thông chẳng sanh, thì chẳng phải là sáu phép thần thông.
Vì sao?
Vì năm loại mắt cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Sáu phép thần thông cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên năm loại mắt chẳng sanh, thì chẳng phải là năm loại mắt. Sáu phép thần thông chẳng sanh, thì chẳng phải là sáu phép thần thông.
Bạch Thế Tôn! Mười lực của Phật chẳng sanh thì chẳng phải là mười lực của Phật. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.
Vì sao?
Vì mười lực của Phật cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên mười lực của Phật chẳng sanh, thì chẳng phải là mười lực của Phật. Bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng chẳng sanh, thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.
Bạch Thế Tôn! Chơn như chẳng sanh thì chẳng phải là chơn như. Pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Vì sao?
Vì chơn như cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên chơn như chẳng sanh, thì chẳng phải là chơn như. pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Bạch Thế Tôn! Quả vị giác ngộ cao tột chẳng sanh thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng sanh, thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Vì sao?
Vì quả vị giác ngộ cao tột cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên quả vị giác ngộ cao tột chẳng sanh, thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng sanh, thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Bạch Thế Tôn! Pháp không quên mất chẳng sanh thì chẳng phải là pháp không quên mất. Tánh luôn luôn xả chẳng sanh, thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.
Vì sao?
Vì pháp không quên mất cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Tánh luôn luôn xả cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên pháp không quên mất chẳng sanh, thì chẳng phải là pháp không quên mất. Tánh luôn luôn xả chẳng sanh, thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả.
Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng sanh thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà La Ni. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa chẳng sanh, thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam Ma Địa.
Vì sao?
Vì tất cả pháp môn Đà La Ni cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa cùng với chẳng sanh không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng sanh, chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên tất cả pháp môn Đà La Ni chẳng sanh, thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà La Ni. Tất cả pháp môn Tam Ma Địa chẳng sanh, thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam Ma Địa.
Bạch Thế Tôn! Sắc chẳng diệt, thì chẳng phải là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng diệt, thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.
Vì sao?
Vì Sắc cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Thọ, tưởng, hành, thức cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên sắc chẳng diệt chẳng phải là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng diệt chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.
Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ chẳng diệt, thì chẳng phải là nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng diệt, thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Vì sao?
Vì Nhãn xứ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhãn xứ chẳng diệt chẳng phải là nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng diệt chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Bạch Thế Tôn!Sắc xứ chẳng diệt, thì chẳng phải là sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng diệt, thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Vì sao?
Vì Sắc xứ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên sắc xứ chẳng diệt chẳng phải là sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng diệt chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Bạch Thế Tôn! Nhãn giới chẳng diệt, thì chẳng phải là nhãn giới. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt, thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.
Vì sao?
Vì Nhãn giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhãn giới chẳng diệt chẳng phải là nhãn giới. Sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.
Bạch Thế Tôn! Nhĩ giới chẳng diệt, thì chẳng phải là nhĩ giới. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt, thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.
Vì sao?
Vì Nhĩ giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên nhĩ giới chẳng diệt chẳng phải là nhĩ giới. Thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.
Bạch Thế Tôn! Tỷ giới chẳng diệt, thì chẳng phải là tỷ giới. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt, thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.
Vì sao?
Vì Tỷ giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên tỷ giới chẳng diệt chẳng phải là tỷ giới. Hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.
Bạch Thế Tôn! Thiệt giới chẳng diệt, thì chẳng phải là thiệt giới. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt, thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.
Vì sao?
Vì thiệt giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên thiệt giới chẳng diệt chẳng phải là thiệt giới. Vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.
Bạch Thế Tôn! Thân giới chẳng diệt, thì chẳng phải là thân giới. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt, thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.
Vì sao?
Vì thân giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên thân giới chẳng diệt chẳng phải là thân giới. Xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.
Bạch Thế Tôn! Ý giới chẳng diệt, thì chẳng phải là ý giới. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt, thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.
Vì sao?
Vì ý giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên ý giới chẳng diệt chẳng phải là ý giới. Pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng diệt chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.
Bạch Thế Tôn! Địa giới chẳng diệt, thì chẳng phải là địa giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng diệt, thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Vì sao?
Vì địa giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên địa giới chẳng diệt chẳng phải là địa giới. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng diệt chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Bạch Thế Tôn! Thánh đế khổ chẳng diệt, thì chẳng phải là Thánh đế khổ. Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng diệt, thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.
Vì sao?
Vì Thánh đế khổ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Thánh đế tập, diệt, đạo cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên Thánh đế khổ chẳng diệt chẳng phải là Thánh đế khổ. Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng diệt chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo.
Bạch Thế Tôn! Vô minh chẳng diệt, thì chẳng phải là vô minh. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng diệt, thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.
Vì sao?
Vì vô minh cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên vô minh chẳng diệt chẳng phải là vô minh. Hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng diệt chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.
Bạch Thế Tôn! Cái không nội chẳng diệt, thì chẳng phải là cái không nội. Cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn.
Cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng diệt, thì chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.
Vì sao?
Vì cái không nội cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên cái không nội chẳng diệt chẳng phải là cái không nội. Cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng diệt chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh.
Bạch Thế Tôn! bố thí Ba la mật đa chẳng diệt, thì chẳng phải là bố thí Ba la mật đa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa chẳng diệt, thì chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Vì sao?
Vì bố thí Ba la mật đa cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên bố thí Ba la mật đa chẳng diệt chẳng phải là bố thí Ba la mật đa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa chẳng diệt chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Bạch Thế Tôn! Bốn tịnh lự chẳng diệt, thì chẳng phải là bốn tịnh lự. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng diệt, thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Vì sao?
Vì bốn tịnh lự cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Bốn vô lượng, bốn định vô sắc cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên bốn tịnh lự chẳng diệt chẳng phải là bốn tịnh lự. bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng diệt chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Bạch Thế Tôn! Tám giải thoát chẳng diệt, thì chẳng phải là tám giải thoát. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng diệt, thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Vì sao?
Vì tám giải thoát cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên tám giải thoát chẳng diệt chẳng phải là tám giải thoát. Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng diệt chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ chẳng diệt, thì chẳng phải là bốn niệm trụ. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo chẳng diệt, thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Vì sao?
Vì bốn niệm trụ cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên bốn niệm trụ chẳng diệt chẳng phải là bốn niệm trụ. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo chẳng diệt chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo.
Bạch Thế Tôn! pháp môn giải thoát không chẳng diệt, thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không. pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng diệt, thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Vì sao?
Vì pháp môn giải thoát không cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên pháp môn giải thoát không chẳng diệt chẳng phải là pháp môn giải thoát không. Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng diệt chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt chẳng diệt, thì chẳng phải là năm loại mắt. Sáu phép thần thông chẳng diệt, thì chẳng phải là sáu phép thần thông.
Vì sao?
Vì năm loại mắt cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Sáu phép thần thông cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên năm loại mắt chẳng diệt chẳng phải là năm loại mắt. Sáu phép thần thông chẳng diệt chẳng phải là sáu phép thần thông.
Bạch Thế Tôn! Mười lực của Phật chẳng diệt, thì chẳng phải là mười lực của Phật. Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng chẳng diệt, thì chẳng phải là bốn bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.
Vì sao?
Vì mười lực của Phật cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên mười lực của Phật chẳng diệt chẳng phải là mười lực của Phật. Bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng chẳng diệt chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng.
Bạch Thế Tôn! Chơn như chẳng diệt, thì chẳng phải là chơn như. Pháp giới, pháp tánh, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng diệt, thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Vì sao?
Vì chơn như cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên chơn như chẳng diệt chẳng phải là chơn như. Pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng diệt chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.
Bạch Thế Tôn! Quả vị giác ngộ cao tột chẳng diệt, thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng diệt, thì chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Vì sao?
Vì quả vị giác ngộ cao tột cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cùng với chẳng diệt không hai, không hai phần.
Vì sao?
Vì pháp chẳng diệt chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải nhiều, chẳng phải khác. Cho nên quả vị giác ngộ cao tột chẳng diệt chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng diệt chẳng phải là trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Mười - Mười Pháp - Phẩm Một - Phẩm Lợi ích - Phần Hai - Sở Y
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Kết Hệ
Phật Thuyết Kinh A Nan Thưa Hỏi Về Việc Lành Dữ Của Việc Thờ Phật, Học Phật
Phật Thuyết Kinh Bản Sự - Phẩm Một - Phẩm Một Pháp - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Quảng đại Thành Tựu Du Già - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Công đức Nhiễu Quanh Tháp Phật Vòng Theo Bên Phải
Phật Thuyết Kinh chánh Pháp Hoa - Phẩm Mười Tám - Khen Pháp Sư - Phần Một