Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Hai Mươi Bảy - Phẩm Thập định - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI PHƯƠNG

QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường  

PHẨM HAI MƯƠI BẢY

PHẨM THẬP ĐỊNH  

PHẦN BA  

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát thấy Phật có vô lượng ánh sáng màu sắc, vô lượng hình tướng, đều viên mãn thành tựu bình đẳng thanh tịnh, mỗi mỗi hiện tiền chứng biết phân minh. 

Hoặc thấy thân Phật nhiều ánh sáng hoặc thấy viên quang một tầm, hoặc thấy sáng rực như mặt nhật, hoặc thấy quang sắc vi diệu, hoặc thấy sắc thanh tịnh, hoặc thấy màu huỳnh kim, hoặc thấy màu Kim Cang, hoặc thấy màu xanh biếc, hoặc thấy vô biên màu sắc, nhẫn đế hoặc thấy thân Phật màu đại thanh ma ni bửu.

Hoặc thấy thân Phật cao bảy thước tay, hoặc tám thước tay, hoặc chín thước tay, hoặc mười thước tay, hoặc hai mươi thước tay, ba mươi thước tay, một trăm thước tay, một ngàn thước tay, hoặc thấy thân Phật cao một Câu Lô Xá, nửa do tuần.

Một do tuần, mười do tuần, trăm do tuần, ngàn do tuần, trăm ngàn do tuần, hoặc thấy thân Phật bằng Diêm Phù Ðề, tứ thiên hạ bằng tiểu thiên Thế Giới, bằng trung thiên Thế Giới, bằng đại thiên Thế Giới, bằng trăm đại thiên Thế Giới, bằng ngàn đại thiên Thế Giới, bằng vẫn chẳng giảm. Ở tại mặt nguyệt thấy là lớn, cũng chẳng tăng.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ tam muội này tùy nơi tâm nguyện thấy thân Phật các thứ tướng hóa hiện, ngôn từ thuyết pháp thọ trì chẳng quên, mà thân Như Lai chẳng tăng chẳng giảm. Ví như chúng sanh sau khi mạng chung lúc sắp thọ sanh chỗ thấy thanh tịnh chẳng rời nơi tâm.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát chẳng rời tam muội thậm thâm này mà thấy thanh tịnh.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ tam muội này thành tựu mười thứ pháp mau chóng: Những là mau thêm các hạnh viên mãn đại nguyện, mau dùng pháp quang chói sáng thế gian mau dùng phương tiện chuyển pháp luân độ thoát chúng sanh, mau tùy theo nghiệp chúng sanh thị hiện Quốc Độ thanh tịnh của Chư Phật.

Mau dùng trí bình đẳng thẳng vào thập lực, mau cùng tất cả Như Lai đồng trụ, mau dùng sức đại từ dẹp phá quân ma, mau dứt nghi cho chúng sanh hoan hỉ, mau tùy thắng giải thị hiện thần biến, mau dùng các thứ diệu pháp ngôn từ tịnh các thế gian.

Ðại Bồ Tát này lại được mười thứ pháp ấn, để ấn tất cả pháp:

Một là đồng thiện căn bình đẳng với Tam Thế Chư Phật.

Hai là đồng được trí huệ pháp thân vô biên tế với Chư Phật.

Ba là đồng chư Như Lai trụ pháp bất nhị.

Bốn là đồng chư Như Lai quan sát Tam Thế vô lượng cảnh giới thẩy đều bình đẳng.

Năm là đồng chư Như Lai được liễu đạt pháp giới vô ngại cảnh giới.

Sáu là đồng chư Như Lai thành tựu thập lực thật là vô ngại.

Bảy là đồng chư Như Lai tuyệt hẳn hai hạnh, trụ pháp vô tránh.

Tám là đồng chư Như Lai giáo hóa chúng sanh hằng chẳng thôi nghỉ.

Chín là đồng chư Như Lai ở trong trí thiện xảo nghĩa thiện xảo hay khéo quan sát.

Mười là đồng chư Như Lai cùng với tất cả Phật bình đẳng không hai.

Chư Phật Tử! Nếu Đại Bồ Tát thành tựu mười pháp ấn này thời rõ biết môn phương tiện thiện xảo tất cả Thế Giới Phật trang nghiêm đại tam muội.

Là bậc vô sư, vì chẳng do người khác dạy mà tự nhập tất cả Phật Pháp.

Là bậc trượng phu, vì hay khai ngộ tất cả chúng sanh.

Là bậc thanh tịnh vì biết tâm tánh bổn tịnh.

Là bậc đệ nhất vì hay độ thoát tất cả thế gian.

Là bậc an ủy vì hay khai hiểu tất cả chúng sanh.

Là bậc an trụ, vì người chưa trụ Phật Chủng tánh thời làm cho được trụ.

Là bậc chân thiệt tri vì nhập môn mhứt thiết trí.

Là bậc vô dị tưởng vì lời nói không hai.

Là bậc trụ pháp tạng, vì thệ nguyện rõ biết tất cả Phật Pháp.

Là bậc hay mưa pháp vũ vì tùy tâm nguyện của chúng sanh đều làm cho đầy đủ.

Chư Phật Tử! Ví như Ðế Thích, nơi búi tóc trên đầu để Châu Ma Ni, vì Bửu Châu này mà oai quang càng thạnh.

Thiên Ðế lúc mới được bửu châu này, thời được mười pháp vượt hơn tất cả Tam Thập Tam Thiên:

Một là sắc tướng.

Hai là hình thể.

Ba là thị hiện.

Bốn là quyến thuộc.

Năm là đồ dùng.

Sáu là âm thanh.

Bảy là thần thông.

Tám là tự tại.

Chín là huệ giải.

Mười là trí dụng.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát lúc mới được tam muội này thời được mười môn trí tạng quảng đại:

Một là trí chiếu sáng tất cả Cõi Phật.

Hai là trí biết tất cả chúng sanh thọ sanh.

Ba là trí làm sự biến hóa khắp Tam Thế.

Bốn là trí vào khắp tất cả thân Phật.

Năm là trí thông đạt tất cả Phật Pháp.

Sáu là trí nhiếp khắp tất cả tịnh pháp.

Bảy là trí khiến khắp tất cả chúng sanh nhập Pháp Thân.

Tám là trí hiện thấy tất cả pháp phổ nhãn thanh tịnh.

Chín là trí tất cả tự tại đến bỉ ngạn.

Mười là trí an trụ tất cả pháp quảng đại khắp hết không thừa.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ tam muội này lại được mười thứ thân oai đức rất thanh tịnh:

Một là vì chiếu sáng bất khả thuyết bất khả thuyết Thế Giới mà phóng bất khả thuyết bất khả thuyết vầng quang minh.

Hai là vì làm cho Thế Giới đều thanh tịnh mà phóng bất khả thuyết bất khả thuyết vầng quang minh vô lượng sắc tướng.

Ba là vì điều phục chúng sanh mà phóng bất khả thuyết bất khả thuyết vầng quang minh.

Bốn là vì thân cận tất cả Chư Phật mà hóa làm bất khả thuyết bất khả thuyết thân.

Năm là vì thừa sự cúng dường tất cả Chư Phật mà rưới bất khả thuyết bất khả thuyết các thứ mây hoa hương thù diệu.

Sáu là vì thừa sự cúng dường tất cả Chư Phật và điều phục tất cả chúng sanh mà trong mỗi mỗi lỗ chân lông hóa làm bất khả thuyết bất khả thuyết các thứ âm nhạc.

Bảy là vì thành thục chúng sanh mà hiện bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng các thứ thần biến tự tại.

Tám là vì nơi chỗ tất cả Chư Phật mười phương cầu thỉnh diệu pháp mà một bước vượt qua bất khả thuyết bất khả thuyết Thế Giới.

Chín là vì làm cho tất cả chúng sanh, những ai nghe thấy đều chẳng luống uổng mà hiện bất khả thuyết bất khả thuyết sắc thân vô lượng tướng thanh tịnh không ai thấy được đảnh.

Mười là vì khai thị vô lượng pháp bí mật cho chúng sanh mà phát bất khả thuyết bất khả thuyết âm thanh ngôn ngữ.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát được mười thứ thân oai đức rất thanh tịnh này rồi, thời có thể làm cho chúng sanh được mười thứ viên mãn:

Một là làm cho chúng sanh được thấy Phật.

Hai là làm cho chúng sanh thâm tín nơi Phật.

Ba là làm cho chúng sanh được nghe Pháp.

Bốn là làm cho chúng sanh biết có Cõi Phật.

Năm là làm cho chúng sanh thấy thần biến của Phật.

Sáu là làm cho chúng sanh nhớ nghiệp đã tập họp.

Bảy là làm cho chúng sanh định tâm viên mãn.

Tám là làm cho chúng sanh nhập Phật thanh tịnh.

Chín là làm cho chúng sanh phát bồ đề tâm.

Mười là làm cho chúng sanh viên mãn Phật Trí.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát làm cho chúng sanh được mười thứ viên mãn rồi, lại vì chúng sanh mà làm mười thứ Phật Sự.

Những là dùng âm thanh làm Phật Sự vì thành thục chúng sanh.

Dùng sắc hình làm Phật Sự vì điều phục chúng sanh.

Dùng ức niệm làm Phật Sự vì thanh tịnh chúng sanh.

Dùng chấn động Thế Giới làm Phật Sự vì khiến chúng sanh lìa ác thú.

Dùng phương tiện giác ngộ làm Phật Sự vì khiến chúng sanh chẳng thất niệm.

Dùng tướng trong mộng làm Phật Sự vì khiến chúng sanh thường chánh niệm.

Dùng phóng đại quang minh làm Phật Sự vì nhiếp lấy khắp chúng sanh.

Dùng tu tập Bồ Tát hạnh làm Phật Sự vì làm cho chúng sanh trụ thắng nguyên.

Dùng thành Đẳng Chánh Giác làm Phật Sự vì làm cho chúng sanh biết pháp huyễn.

Dùng chuyển Diệu pháp luân làm Phật Sự, do vì đại chúng mà thuyết pháp chẳng lỗi thời.

Dùng hiện trụ thọ mạng làm Phật Sự vì điều phục tất cả chúng sanh.

Dùng thị hiện nhập Niết Bàn làm Phật Sự, vì biết các chúng sanh nhàm mỏi.

Trên đây là trí thiện xảo rõ biết tất cả Cõi Phật trang nghiêm đại tam muội thứ bảy của đại Bồ Tát.

Chư Phật Tử! Thế nào là nhất thiết chúng sanh sai biệt thân đại tam muội của đại Bồ Tát?

Ðại Bồ Tát trụ tam muội này được mười thứ vô sở trước: Những là nơi tất cả cõi vô sở trước, nơi tất cả phương vô sở trước, nơi tất cả kiếp vô sở trước, nơi tất cả chúng vô sở trước, nơi tất cả pháp vô sở trước, nơi tất cả Bồ Tát vô sở trước, nơi tất cả Bồ Tát nguyện vô sở trước, nơi tất cả tam muội vô sở trước, nơi tất cả Phật vô sở trước, nơi tất cả địa vô sở trước.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát nơi tam muội này, nhập thế nào?

Khởi thế nào?

Ðại Bồ Tát nơi tam muội này, nội thân nhập ngoại thân khởi, ngoại thân nhập nội thân khởi, đồng thân nhập dị thân khởi, dị thân nhập đồng thân khởi, nhân thân nhập Dạ Xoa thân khởi, Dạ Xoa thân nhập long thân khởi, long thân nhập A tu la thân khởi.

A Tu La thân nhập thiên thân khởi, thiên thân nhập Phạm Vương thân khởi, phạm vương thân nhập Dục Giới thân khởi, thiên trung nhập địa ngục khởi, địa ngục nhập nhân gian khởi, nhân gian nhập loài khác khởi, ngàn thân nhập một thân khởi, một thân nhập ngàn thân khởi.

Na do tha thân nhập một thân khởi, một thân nhập na do tha, trong chúng nam châu nhập trong chúng Tây châu khởi, trong chúng Tây châu nhập trong chúng bắc châu khởi, trong chúng Bắc châu nhập trong chúng Đông châu khởi.

Trong chúng Đông châu nhập trong chúng ba châu kia khởi, trong chúng ba châu nhập trong chúng bốn châu khởi, trong chúng bốn châu nhập trong chúng tất cả biển sai biệt khởi, trong chúng tất cả biển sai biệt nhập trong chúng tất cả hải thần khởi.

Trong chúng tất cả hải thần nhập trong thủy đại khởi, trong thủy đại nhập trong địa đại khởi, trong địa đại nhập trong hỏa đại khởi, trong hỏa đại nhập trong phong đại khởi, trong phong đại nhập trong tất cả tứ đại khởi, trong tất cả tứ đại nhập trong pháp vô sanh khởi.

Trong pháp vô sanh nhập trong núi Tu Di khởi, trong núi Tu Di nhập trong bảy Bửu Sơn khởi, trong bảy Bửu Sơn nhập trong tất cả cây cỏ lùm rừng hắc sơn khởi, trong tất cả lùm rừng hắc sơn nhập trong tất cả diệu hương hoa bửu trang nghiêm khởi.

Trong tất cả trang nghiêm nhập trong tất cả chúng sanh thọ sanh nơi bốn châu Thượng phương Hạ phương khởi, trong tất cả chúng sanh thọ sanh nhập trong chúng sanh nơi tiểu thiên Thế Giới khởi, trong chúng sanh nơi tiểu thiên Thế Giới nhập trong chúng sanh nơi trung thiên Thế Giới khởi.

Trong chúng sanh nơi trung thiên Thế Giới nhập trong chúng sanh nơi đại thiên Thế Giới khởi, trong chúng sanh nơi trăm ngàn ức na do tha đại thiên Thế Giới nhập trong chúng sanh nơi vô số Thế Giới khởi, trong chúng sanh nơi vô số Thế Giới nhập trong chúng sanh nơi vô lượng Thế Giới khởi.

Nơi chúng sanh trong vô lượng Thế Giới nhập trong chúng sanh nơi vô biên Thế Giới khởi, trong chúng sanh nơi vô biên Thế Giới nhập trong chúng sanh nơi vô đẳng Phật Độ khởi, trong chúng sanh nơi vô đẳng Phật độ nhập trong chúng sanh nơi bất khả sổ Thế Giới khởi.

Trong chúng sanh nơi bất khả sổ Thế Giới nhập trong chúng sanh nơi bất khả xưng Thế Giới khởi, trong chúng sanh nơi bất khả xưng Thế Giới nhập trong chúng sanh nơi bất khả tư Thế Giới khởi, trong chúng sanh nơi bất khả tư Thế Giới nhập trong chúng sanh nơi bất khả lượng Thế Giới khởi.

Trong chúng sanh nơi bất khả lượng Thế Giới nhập trong chúng sanh nơi bất khả thuyết Thế Giới khởi, trong chúng sanh nơi bất khả thuyết Thế Giới nhập trong chúng sanh nơi bất khả thuyết bất khả thuyết Thế Giới khởi.

Trong chúng sanh nơi bất khả thuyết bất khả thuyết Thế Giới nhập trong chúng sanh tạp nhiễm khởi, trong chúng sanh tạp nhiễm nhập trong chúng sanh thanh tịnh khởi, trong chúng sanh thanh tịnh nhập trong chúng sanh tạp nhiễm khởi, trong nhãn xứ nhập trong nhĩ xứ khởi.

Trong nhĩ xứ nhập trong tỹ xứ khởi, trong tỹ xứ nhập trong thiệt xứ khởi, trong thiệt xứ nhập trong thân xứ khởi, trong thân xứ nhập trong ý xứ khởi, trong ý xứ nhập trong thân xứ khởi, trong tự xứ nhập trong tha xứ khởi, trong tha xứ nhập trong tự xứ khởi, trong một vi trần nhập trong vô số Thế Giới vi trần khởi.

Trong vô số Thế Giới vi trần nhập trong một vi trần khởi, trong Thanh Văn nhập trong Ðộc Giác khởi, trong Ðộc Giác nhập trong Thanh Văn khởi, trong tự thân nhập trong Phật thân khởi, trong Phật thân nhập trong tự thân khởi, một niệm nhập ức kiếp khởi, ức kiếp nhập một niệm khởi.

Ðồng niệm nhập biệt thời khởi, biệt thời nhập đồng niệm khởi, tiền tế nhập hậu tế khởi, hậu tế nhập tiền tế khởi, tiền tế nhập trung tế khởi, trung tế nhập tiền tế khởi, Tam Thế nhập sát na khởi, sát na nhập tam thế khởi, chân như nhập ngôn thuyết khởi, ngôn thuyết nhập chân như khởi. Ví như có người bị quỷ phá thân họ rung động chẳng tự an được, quỷ chẳng hiện thân mà làm cho thân người kia như vậy.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ nơi tam muội này tự thân nhập định tự thân khởi. Ví như tử thi do chú lực mà hay chổi dậy mà đi, cùng làm được các việc. Tử thi cùng chú dầu đều khác nhau mà có thể hòa hiệp làm những việc trên. Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ nơi tam muội này, đồng cảnh nhập định dị cảnh khởi, dị cảnh nhập định đồng cảnh khởi.

Ví như Tỳ Kheo được tâm tự tại, hoặc một thân làm nhiều thân, hoặc nhiều thân làm một thân. Chẳng phải một thân mất mà nhiều thân sanh, cũng chẳng phải nhiều thân mất mà một thân sanh. Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ nơi tam muội này, một thân nhập định nhiều thân khởi, nhiều thân nhập định một thân khởi.

Ví như Đại Địa đồng một vị mà sanh cỏ cây có nhiều vị khác nhau. Ðất dầu không khác mà vị có sai khác. Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ nơi tam muội này vẫn vô phân biệt, mà có một thứ nhập định nhiều thứ khởi, nhiều thứ nhập định một thứ khởi.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ nơi tam muội này được mười pháp xưng tán chỗ ngợi khen.

Những là: Vì nhập chân như nên gọi là Như Lai, vì giác ngộ tất cả pháp nên gọi là Phật, vì được tất cả thế gian ngợi khen nên gọi là Pháp Sư, vì biết tất cả pháp nên gọi là nhất thiết trí, vì được tất cả thế gian quy y nên gọi là chỗ sở y, vì rõ thấu tất cả pháp phương tiện nên gọi là Đạo Sư.

Vì dẫn tất cả chúng sanh vào đạo nhất thiết trí nên gọi là Đại Đạo Sư, vì là đèn của tất cả thế gian nên gọi là quang minh, vì tâm chí viên mãn, nghĩa lợi thành tựu, chỗ làm đều xong, trụ trí vô ngại, phân biệt biết rõ tất cả pháp nên gọi là thập lực tự tại, vì thông đạt tất cả pháp luân nên gọi là bậc nhất thiết kiến.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ nơi tam muội này lại được mười thứ quang minh chói sáng. Những là được quang minh của tất cả Phật, vì cùng Phật bình đẳng.

Ðược tất cả Thế Giới quang minh, vì có thể khắp nghiêm tịnh.

Ðược tất cả chúng sanh quang minh, vì điều đến điều phục.

Ðược vô lượng vô úy quang minh vì pháp giới làm trường thuyết pháp.

Ðược vô sai biệt quang minh, vì biết tất cả pháp không các thứ tánh.

Ðược phương tiện quang minh, vì nơi ly dục tế của các pháp mà chứng nhập.

Ðược chân thiệt quang minh, vì nơi ly dục tế của các pháp tâm bình đẳng.

Ðược thần biến quang minh khắp tất cả thế gian, vì được Phật gia hộ hằng chẳng dứt.

Ðược thiện tư duy quang minh, vì đến bờ tự tại của tất cả Phật.

Ðược nhất thiết pháp chân như quang minh vì nơi trong một lỗ chân lông khéo nói tất cả.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ nơi tam muội này được mười thứ vô sở tác. Những là thân nghiệp vô sở tác, ngữ nghiệp vô sở tác, ý nghiệp vô sở tác, thần thông vô sở tác, rõ pháp vô tánh vô sở tác, biết nghiệp chẳng hoại vô sở tác, vô sai biệt trí vô sở tác, vô sanh khởi trí vô sở tác, biết pháp không diệt vô sở tác, tùy thuận nơi văn chẳng hoại nơi nghĩa vô sở tác.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ nơi tam muội này, vô lượng cảnh giới nhiều thứ sai khác. Những là một nhập nhiều khởi, nhiều nhập một khởi, đồng nhập dị khởi, dị nhập đồng khởi, tế nhập thô khởi, thô nhập tế khởi, đại nhập tiểu khởi, tiểu nhập đại khởi, thuận nhập nghịch khởi, nghịch nhập thuận khởi, không thân nhập có thân khởi, có thân nhập không thân khởi, vô tướng nhập hữu tướng khởi, hữu tướng nhập vô tướng khởi, trong khởi mà nhập, trong nhập mà khởi.

Ðây đều là cảnh giới tự tại của tam muội này. Ví nhà huyễn thuật Trì Chú được thành có thể hiện các thứ hình tướng sai biệt. Chú khác với huyễn, mà có thể làm ra huyễn.

Chú chỉ là âm thanh, mà có thể làm ra các hình sắc cho nhãn thức biết, các thứ tiếng cho nhĩ thức biết, các thứ hương cho tỹ thức biết, các thứ vị cho thiệt thức biết, các thứ xúc cho thân thức biết, các cảnh giới cho ý thức biết. Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ nơi tam muội này, trong đồng nhập định trong dị khởi, trong dị nhập định trong đồng khởi.

Ví như Ðao Lợi Thiên lúc đánh với A tu la. Chư Thiên thắng trận. Vua A tu la thân cao lớn bảy trăm do tuần dùng sức huyễn thuật đem binh đội trăm ngàn người đồng thời chạy vào trong lỗ cộng sen để trốn.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát đã khéo thành tựu các huyễn trí địa. Huyễn trí tức là Bồ Tát, Bồ Tát tức là huyễn trí. Vì thế nên có thể trong pháp vô sai biệt nhập định trong pháp sai biệt khởi định. Trong pháp sai biệt nhập định trong pháp vô sai biệt khởi định.

Ví như nhà nông gieo giống trong ruộng, hột giống ở dưới còn trái sanh ở trên. Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ tam muội này, trong một nhập định trong nhiều khởi, trong nhiều nhập định trong một khởi.

Ví như xích bạch của nam nữ hòa hiệp, hoặc có chúng sanh thọ sanh trong đó, bấy giờ gọi là Ca La Lã. Từ đây tuần tự ở thai mẹ đủ mười tháng, do sức nghiệp lành nên tất cả chi phần đều được thành tựu, căn thân chẳng thiếu, tâm ý sáng suốt.

Ca la lã kia với sáu căn thể trạng khác nhau, do nghiệp lực mà có thể làm cho kia thứ đệ thành tựu, thọ các thứ quả báo đồng dị loại.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát từ nhất thiết trí ngôi Ca la lã, do sức tín giải nguyện lần lần tăng trưởng, tâm Bồ Tát quảng đại nhiệm vận tự tại. Trong không nhập định trong có khởi, trong có nhập định trong không khởi.

Ví như Long Cung nương đất làm nền mà chẳng nương hư không. Rồng ở trong cung chẳng ở hư không mà có thể nổi mây đầy khắp hư không.

Có người ngước xem hoặc thấy có cung điện, phải biết đó là thành Càn Thát Bà chẳng phải Long Cung. Đầu Rồng ở dưới mà mây nổi trên không.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ tam muội này nơi vô tướng nhập nơi hữu tướng khởi nơi hữu tướng nhập nơi vô tướng khởi. Ví như cung của Diệu Quang Ðại Phạm Thiên Vương ở tên là nhất thiết thế gian tối thắng thanh tịnh tạng.

Trong cung lớn này thấy khắp đại thiên Thế Giới: Những tứ thiên hạ, cung của Thiên, Long Bát Bộ, chỗ ở của nhân gian và ba ác đạo, các núi Tu Di Sơn vân vân, biển cả sông lạch, bờ đầm, nguồn suối, thành ấp tụ lạc, rừng cây, các thứ bửu.

Những vật như vậy tột đến đại luân vi, nhẫn đến vi tế du trần trong hư không đều hiển hiện trong cung của Ðại Phạm Vương, như bóng mặt hiện thấy trong gương sáng.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ nơi nhất thiết chúng sanh sai biệt thân Đại tam muội này, biết các thứ cõi nước, thấy các thứ Phật Độ, các thứ quả chứng, các thứ pháp thành, các thứ hạnh mãn, các thứ giải nhập, các thứ tam muội, khởi các thứ thần thông, được các thứ trí huệ, trụ các thứ sát na tế.

Ðại Bồ Tát này đến mười thứ thần thông bỉ ngạn.

Những là đến Chư Phật tận hư không biến pháp giới: Thần thông bỉ ngạn. Ðến Bồ Tát rốt ráo vô sai biệt tự tại thần thông bỉ ngạn.

Ðến hay phát khởi Bồ Tát quảng đại hạnh nguyện nhập Như Lai môn Phật Sự: Thần thông bỉ ngạn.

Ðến hay chấn động tất cả Thế Giới tất cả cảnh giới đều làm cho thanh tịnh: Thần thông bỉ ngạn.

Ðến hay tự tại biết tất cả chúng sanh nghiệp quả bất tư nghì đều như huyễn hóa: Thần thông bỉ ngạn.

Ðến hay tự tại biết các tam muội thô tế nhập xuất tướng sai biệt: Thần thông bỉ ngạn.

Ðến hay dũng mãnh nhập cảnh giới Như Lai mà ở trong đó phát sanh đại nguyện: Thần thông bỉ ngạn.

Ðến hay hóa làm Phật, hóa chuyển pháp luân điều phục chúng sanh, khiến sanh phật chủng, khiến nhập Phật Thừa mau được thành tựu: Thần thông bỉ ngạn.

Ðến hay rõ biết bất khả thuyết tất cả văn cú bí mật mà chuyển pháp luân, khiến trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn đều được thanh tịnh: Thần thông bỉ ngạn.

Ðến chẳng nhờ ngày đêm năm tháng kiếp số, một niệm đều có thể thị hiện khắp Tam Thế: Thần thông bỉ ngạn.

Trên đây là trí thiện xảo nhất thiết chúng sanh sai biệt thân đại tam muội thứ tám của Đại Bồ Tát.

Chư Phật Tử! Thế nào là pháp giới tự tại tam muội của Đại Bồ Tát?

Ðại Bồ Tát này nơi tự nhãn xứ nhẫn đến tự ý xứ nhập tam muội, nên gọi là pháp giới tự tại. Ðại Bồ Tát nơi mỗi mỗi lỗ chân lông của tự thân mà nhập tam muội này, tự nhiên biết được các thế gian, biết các pháp thế gian, biết các Thế Giới, biết ức na do tha Thế Giới, biết A tăng kỳ Thế Giới, biết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Thế Giới.

Trong tất cả Thế Giới thấy có Phật xuất thế, Bồ Tát chúng hội thảy đều Đông đủ, quang minh thanh tịnh, thuần thiện không tạp, trang nghiêm rộng lớn, các thứ châu báu dùng để ngiêm sức.

Bồ Tát trong các Thế Giới này không ngớt tu hạnh Bồ Tát hoặc một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, ức kiếp, trăm ngàn ức na do tha kiếp, vô số kiếp, vô lượng kiếp, vô biên kiếp, vô đẳng kiếp, bất khả sổ kiếp, bất khả xưng kiếp, bất khả tư kiếp, bất khả lượng kiếp, bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp.

Bồ Tát lại ở trong vô lượng kiếp như vậy mà trụ nơi tam muội này: Cũng nhập, cũng khởi, cũng thành tựu Thế Giới, cũng điều phục chúng sanh, cũng rõ khắp pháp giới, cũng biết khắp Tam Thế, cũng diễn thuyết các pháp, cũng hiện đại thần thông các thứ phương tiện vô trước vô ngại, vì nơi pháp giới được tự tại.

Khéo phân biệt nhãn, khéo phân biệt nhĩ, tỷ, thiệt, thân, khéo phân biệt ý. Các thứ sai biệt chẳng đồng như vậy đều khéo phân biệt tột ngằn mé.

Bồ Tát khéo thấy và biết như vậy rồi, có thể sanh khởi mười ngàn ức Đà La Ni pháp quang minh, thành tựu mười ngàn ức hạnh thanh tịnh, chứng được mười ngàn ức thiện căn, viên mãn mười ngàn ức thần thông. Hay nhập mười ngàn ức tam muội, thành tựu mười ngàn ức thần lực, trưởng dưỡng mười ngàn ức công lực, viên mãn mười ngàn ức thâm tâm, vận động mười ngàn ức lực trì, thị hiện mười ngàn ức thần biến, đầy đủ mười ngàn ức Bồ Tát vô ngại.

Viên Mãn mười ngàn ức Bồ Tát trợ đạo, chức nhóm mười ngàn ức Bồ Tát Tạng, chiếu sáng mười ngàn ức Bồ Tát phương tiện, diễn thuyết mười ngàn ức các nghĩa, thành tựu mười ngàn ức các nguyện, xuất sanh mười ngàn ức hồi hướng, tịnh tu mười ngàn ức Bồ Tát chánh vị, minh liễu mười ngàn ức pháp môn, khai thị mười ngàn ức diễn thuyết, tu trị mười ngàn ức Bồ Tát thanh tịnh.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát lại có vô số công đức, vô lượng công đức, vô biên công đức, vô đẳng công đức, bất khả sổ công đức, bất khả xưng công đức, bất khả tư công đức, bất bất khả lượng công đức, bất khả thuyết công đức, vô tận công đức.

Chư Phật Tử! Bồ Tát này nơi công đức như vậy đều đã làm xong, đều đã chứa nhóm, đều đã trang nghiêm, đều đã thanh tịnh, đều đã suốt thấu, đều đã nhiếp thọ, đều đã xuất sanh, đều đáng khen ngợi, đều được kiên cố, đều đã thành tựu.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ tam muội này được Đông phương mười ngàn vô số Phật sát vi trần số danh hiệu Chư Phật nhiếp thọ. Mỗi mỗi danh hiệu Phật này lại có mười ngàn vô số Phật sát vi trần số Phật đều riêng khác. Như Đông phương, chín phương kia cũng như vậy. Chư Phật đó đều hiện ra trước mặt Bồ Tát.

Vì Bồ Tát mà hiện cõi thanh tịnh của Chư Phật, vì nói vô lượng thân của Chư Phật, vì nói nan tư nhãn của Chư Phật, vì nói vô lượng nhĩ của Chư Phật, vì nói tỹ thanh tịnh của Chư Phật, vì nói thiệt thanh tịnh của Chư Phật, vì nói tâm vô trụ của Chư Phật.

Vì nói thần thông vô thượng của Chư Phật, khiến tu Vô Thượng bồ đề của Phật, khiến được âm thanh thanh tịnh của Phật, khai thị pháp luân bất thối của Phật, hiển thị vô biên chúng hội của Phật, khiến nhập vô biên bí mật của Phật, tán thán tất cả thiện căn của Phật, khiến nhập pháp bình đẳng của Phật.

Tuyên nói Tam Thế chủng tánh của Phật, thị hiện vô lượng sắc tướng của Phật, xiển dương pháp hộ niệm của Phật, diễn sướng pháp âm vi diệu của Phật, biện minh Thế Giới của tất cả Chư Phật, tuyên dương tam muội của tất cả Chư Phật.

Thị hiện chúng hội thứ đệ của Chư Phật, hộ trì pháp bất tư nghì của Chư Phật, nói tất cả pháp dường như huyễn hóa, thuyết minh pháp tánh không động chuyển, khai thị tất cả pháp luân vô thượng, khen ngợi vô lượng công đức của Phật, khiến vào tất cả những mây tam muội, khiến biết tâm đó như huyễn như hóa vô biên vô tận.

Chư Phật Tử! Lúc Đại Bồ Tát trụ nơi pháp giới tự tại tam muội này, mười phương kia, mỗi phương đều có mười ngàn vô số Phật sát vi trần số danh hiệu Như Lai, trong mỗi mỗi danh hiệu đều có mười ngàn vô số Phật sát vi trân số Phật đồng thời hộ niệm cho Bồ Tát này được vô biên thân.

Cho Bồ Tát này được tâm vô ngại, cho Bồ Tát này nơi tất cả pháp được không vọng niệm, cho Bồ Tát này nơi tất cả pháp được huệ quyết định, cho Bồ Tát này càng thêm sáng suốt nơi tất cả pháp đều lãnh thọ được, cho Bồ Tát này nơi tất cả pháp đều có thể hiểu rõ.

Cho Bồ Tát này các căn mạnh lẹ nơi pháp thần thông đều được thiện xảo, cho Bồ Tát này cảnh giới vô ngại đi khắp pháp giới hằng chẳng nghỉ, cho Bồ Tát này được trí vô ngại rốt ráo thanh tịnh, cho Bồ Tát này dùng sức thần thông trong tất cả Thế Giới thị hiện thành Phật.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ tam muội này được mười thứ hải. Những là được Chư Phật hải, vì đều xem thấy. Ðược chư pháp hải, vì hay dùng trí huệ trọn biết rõ. Ðược chúng sanh hải, vì trọn điều phục. Ðược chư sát hải, vì dùng thần thông vô tánh vô tác đều qua đến.

Ðược công đức hải, vì tất cả tu hành trọn viên mãn. Ðược thần thông hải, vì hay rộng thị hiện khiến khai ngộ. Ðược chư căn hải, vì những căn tánh chẳng đồng đều khéo biết.

Ðược chư tâm hải, vì biết vô lượng tâm chủng loại sai biệt của tất cả chúng sanh. Ðược chư hạnh hải, vì hay dùng nguyện lực đều viên mãn. Ðược chư nguyện hải, vì đều làm cho thành tựu trọn thanh tịnh.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát được mười thứ hải rồi, lại được mười thứ thù thắng:

Một là trong tất cả chúng sanh rất là đệ nhất.

Hai là trong tất cả Chư Thiên rất là thù đặc.

Ba là trong tất cả Phạm Vương rất tột tự tại.

Bốn là nơi các thế gian không chỗ nhiễm trước.

Năm là tất cả thế gian không gì che chói được.

Sáu là tất cả các ma chẳng mê loạn được.

Bảy là vào khắp các loài không bị chướng ngại.

Tám là mọi nơi thọ sanh biết chẳng kiên cố.

Chín là tất cả Phật Pháp đều được tự tại.

Mười là tất cả thần thông đều hay thị hiện.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát đã được mười thứ thù thắng, lại được mười thứ lực ở trong chúng sanh giới tu tập các hạnh:

Một là sức dũng kiện, vì điều phục thế gian.

Hai là sức tinh tấn, vì hằng chẳng thối chuyển.

Ba là sức vô trước, vì lìa các cấu nhiễm.

Bốn là sức tịch tịnh, vì không tránh luận nơi tất cả pháp.

Năm là sức nghịch thuận, vì nơi tất cả pháp tâm tự tại.

Sáu là sức pháp tánh, vì trong các nghĩa được tự tại.

Bảy là sức vô ngại vì trí huệ quảng đại.

Tám là sức vô úy vì khéo thuyết pháp.

Chín là sức biện tài, vì khéo thọ trì các pháp.

Mười là sức khai thị, vì trí huệ vô biên.

Chư Phật Tử! Mười thứ lực này là sức quảng đại, sức tối thắng, sức không ai xô dẹp được, sức vô lượng, sức khéo chứa nhóm, sức bất động, sức kiên cố, sức trí huệ, sức thành tựu, sức thắng định, sức thanh tịnh, sức rất thanh tịnh, sức Pháp Thân, sức pháp quang minh, sức pháp đăng, sức pháp môn.

Sức không bị phá hoại, sức rất dũng mãnh, sức đại trượng phu, sức thiện tượng phu tu tập, sức thành chánh giác, sức quá khứ chứa nhóm thiện căn, sức an trụ vô lượng thiện căn, sức trụ Như Lai lực, sức tâm tư duy, sức tăng trưởng Bồ Tát hoan hỷ, sức xuất sanh Bồ Tát tịnh tín.

Sức tăng trưởng Bồ Tát dũng mãnh, sức do Bồ Ðề tâm sanh, sức Bồ Tát thanh tịnh thâm tâm, sức Bồ Tát thù thắng thâm tâm, sức Bồ Tát thiện căn huân tập, sức cứu cánh các pháp.

Sức thân vô ngại, sức nhập pháp môn phương tiện thiện xảo, sức diệu pháp thanh tịnh, sức an trụ thế lực lớn tất cả thế gian chẳng khuynh động được, sức tất cả chúng sanh không ai che chói được.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát này nơi vô lượng pháp công đức như vậy, hay thành tựu, hay viên mãn, hay chiếu minh, hay cụ túc, hay khắp cụ túc, hay quảng đại, hay kiên cố, hay tăng trưởng, hay tịnh trị, hay khắp tịnh trị.

Về những công đức biên tế, trí huệ biên tế, tu hành biên tế, pháp môn biên tế, tự tại biên tế, khổ hạnh biên tế, thành tựu biên tế, thanh tịnh biên tế, xuất ly biên tế, pháp tự tại biên tế của Đại Bồ Tát này không ai có thể nói được.

Bồ Tát này chỗ chứng đắc, chỗ thành tựu, chỗ xu nhập, chỗ hiện tiền, chỗ có cảnh giới, chỗ có quan sát, chỗ có chứng nhập, chỗ có thanh tịnh, chỗ có liễu tri, chỗ có kiến lập tất cả pháp môn, trong bất khả thuyết kiếp không thể nói hết được.

Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ nơi tam muội này có thể rõ biết vô số vô lượng vô biên vô đẳng bất khả sổ bất khả xưng bất khả tư bất khả lượng bất khả thuyết bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả tam muội. Cảnh giới của mỗi mỗi tam muội đó quảng đại vô lượng.

Trong cảnh giới đó hoặc nhập, hoặc xuất, hoặc trụ, chỗ có tướng trạng, chỗ có thị hiện, chỗ có hành xứ, chỗ có đẳng lưu, chỗ có tự tánh, chỗ có trừ diệt, chỗ có xuất ly, tất cả như vậy đều thấy rõ cả.

Ví như cung của đại Long Vương nơi ao A Nậu Ðạt chảy ra thành bốn con sông lớn, không đục, không tạp, không cấu uế, màu sắc thanh tịnh dường như hư không. Bốn mặt ao, mỗi phía có một cửa sông, chảy ra thành bốn con sông.

Nơi cửa Tượng Khẩu chảy ra thành sông Hằng Già. Nơi cửa Sư Tử Khẩu chảy ra thành sông Tư Ðà. Nơi cửa Ngưu Khẩu chảy ra thành sông Tín Ðộ.

Nơi cửa Mã Khẩu chảy ra thành sông Phược Sô. Nơi cửa sông Hằng Già chảy ra cát bạc. Cửa sông Tư Ðà chảy ra cát Kim Cương. Cửa sông Tín Ðộ chảy ra cát vàng.

Cửa sông Phược Sô chảy ra cát lưu ly. Cửa sông Hằng Già màu bạc. Cửa sông Tư Ðà màu Kim Cương. Cửa sông Tín Ðộ màu vàng. Cửa sông Phược Sô màu lưu ly. Mỗi cửa sông rộng một do tuần.

Nước nơi bốn cửa sông chảy quanh ao A Nậu Ðạt bảy vòng rồi theo phương vị mà chảy ra bốn phía, nổi sóng cuồn cuộn chảy thẳng ra biển.

Nơi dòng nước của bốn sông chảy quanh ao, có thiên bửu hiệp thành bốn thứ hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, hương thơm lạ lùng ngào ngạt, diệu sắc thanh tịnh. Những cánh hoa, những đài nhụy đều là các thứ báu tự nhiên chói suốt, đều phóng ánh sáng chiếu hiện lẫn nhau.

Ao A Nậu Ðạt chu vi rộng lớn năm mươi do tuần, những cát báu trải khắp đáy ao, nghiêm sức với những châu Ma Ni, bờ ao trang nghiêm bằng vô lượng diệu bửu, diệu hương Chiên Đàn rải khắp trong đó. Bốn thứ hoa sen và các hoa báu khác đều có khắp ao.

Gió thoảng đưa hương khí đi xa. Rừng hoa cây báu bao quanh ao. Lúc mặt nhật mọc thảy đều chiếu sáng. Ao và sông cùng tất cả vật chiếu chói lẫn nhau thành lưới quang minh.

Các vật này, hoặc xa, hoặc gần, hoặc cao, hoặc thấp, hoặc rộng, hoặc hẹp, hoặc thô, hoặc tế, nhẫn đến rất nhỏ như một hột cát, một hột bụi đều là diệu bửu quang minh chói sáng.

Tất cả vật đều có hiện bóng mặt nhật. Các vật này cũng hiện bóng lẫn nhau. Các bóng ấy không thêm không bớt, chẳng phải hiệp, chẳng phải tan, đều như bổn chất mà được thấy rõ.

Chư Phật Tử! Như ao A Nậu Ðạt, nơi bốn cửa chảy ra bốn con sông, thẳng vào biển. Cũng vậy, Đại Bồ Tát từ tứ biện tài phát sanh các hạnh rốt ráo vào nơi biển nhất thiết trí. Như sông Hằng Già từ Tượng Khẩu màu bạc chảy ra cát bạc.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát dùng nghĩa biện tài thuyết tất cả nghĩa môn của Đức Như lai đã nói, xuất sanh tất cả bạch pháp thanh tịnh rốt ráo vào nơi biển trí vô ngại. Như sông Tư Ðà từ Sư Tử Khẩu màu kim cương chảy ra cát Kim Cương.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát dùng pháp biện tài vì tất cả chúng sanh mà nói câu kim cương dẫn ra trí kim cương rốt ráo vào nơi biển trí vô ngại. Như sông Tín Ðộ từ Ngưu Khẩu màu vàng chảy ra cát vàng.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát dùng huấn từ biện tài thuyết duyên khởi phương tiện tùy thuận thế gian, khai ngộ chúng sanh khiến đều hoan hỉ điều phục thành thục, rốt ráo vào nơi biển duyên khởi phương tiện. Như sông Phược Sô từ Mả Khẩu màu lưu ly chảy ra cát lưu ly.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát dùng vô tận biện tài mưa trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết diệu pháp, làm cho người nghe đều được gội nhuần rốt ráo vào nơi biển Phật Pháp. Như bốn con sông chảy quanh ao A Nậu Ðạt rồi đều theo phương vị chảy thẳng ra biển.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát thành tựu tùy thuận thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp. Thành tựu trí làm tiền đạo cho thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp. Tuôn khắp bốn phương rốt ráo vào nơi biển nhất thiết trí.

Chư Phật Tử! Những gì gọi là Bồ Tát bốn phương?

Những là thấy tất cả Phật mà được khai ngộ, nghe tất cả pháp thọ trì chẳng quên, đầy đủ tất cả hạnh Ba La Mật, đại bi thuyết pháp làm đầy đủ cho chúng sanh. 

Như bốn con sông chảy quanh ao, trong đó mọc đầy những bốn thứ hoa sen: Xanh, vàng, đỏ, trắng.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát trong chặng phát tâm bồ đề chẳng rời bỏ chúng sanh, thuyết pháp điều phục khiến điều viên mãn vô lượng tam muội thấy cõi nước Phật trang nghiêm thanh tịnh. Như cây báu bao quanh ao A Nậu Ðạt.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát hiện cõi nước Phật trang nghiêm, làm cho chúng sanh xu hướng bồ đề. Như ao A Nậu Ðạt rộng năm mươi do tuần, nước ao trong sạch không đục.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát tâm bồ đề rộng vô lượng vô biên, đầy đủ thiện căn thanh tịnh không nhơ. Như ao A Nậu Ðạt dùng vô lượng bửu trang nghiêm nơi bờ, hương chiên đàn rải đầy khắp trong đó.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát dùng trăm ngàn ức mười thứ trí bửu trang nghiêm ờ đại nguyện bồ đề tâm, khắp rải tất cả những pháp lành diệu hương. Như ao A Nậu Ðạt, cát vàng trải khắp đáy ao, châu Ma Ni xen lẫn trang nghiêm.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát dùng trí huệ vi diệu quán sát cùng khắp, bất tư nghì pháp hữu Bồ Tát giải thoát xen lẫn trang nghiêm, được vô ngại quang minh nơi tất cả pháp, trụ nơi chỗ trụ của tất cả Phật, nhập nơi tất cả phương tiện thậm thâm. Như Long Vương nơi ao A Nậu Ðạt khỏi hẳn những nhiệt não của loài rồng.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát khỏi hẳn tất cả ưu não của thế gian. Dầu hiện thọ sanh mà không nhiễm trước. Như bốn sông lớn thấm nhuần khắp mặt đất, rồi chảy vào biển.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát dùng bốn sông trí huệ thấm nhuần Trời, Người, Sa Môn, Bà La Môn, làm cho họ đều vào nơi biển trí huệ vô thượng bồ đề.

Dùng bốn thứ lực để trang nghiêm:

Một là sông nguyện trí: Cứu hộ điều phục tất cả chúng sanh thường không ngớt nghỉ.

Hai là sông trí Ba La Mật tu hạnh bồ đề lợi ích chúng sanh, quá khứ, vị lai, hiện tại nối tiếp vô tận rốt ráo vào nơi biển trí của Chư Phật.

Ba là sông trí tam muội của Bồ Tát vô số tam muội dùng làm trang nghiêm thấy tất cả Phật vào nơi biển Chư Phật.

Bốn là sông trí đại bi, đại bi tự tại cứu khắp chúng sanh, phương tiện nhiếp lấy không thôi nghỉ, tu hành môn công đức bí mật rốt ráo vào nơi biển lớn thập lực. Như bốn sông lớn từ ao A Nậu Ðạt chảy ra vô tận thẳng vào đến biển.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát dùng sức đại nguyện tu hạnh Bồ Tát, tri kiến tự tại vô tận, rốt ráo vào nơi biển nhất thiết trí. Như bốn sông lớn chảy vào biển, không gì có thể ngăn chẳng cho chảy vào biển được.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát thường siêng tu tập Hạnh Nguyện Phổ Hiền, thành tựu tất cả trí huệ quang minh, trụ nơi pháp bồ đề của tất cả Phật, vào Phật Trí không chướng ngại. Như bốn sông lớn chảy thẳng vào biển, trải qua nhiều kiếp vẫn không nhàm mỏi.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát dùng Hạnh Nguyện Phổ Hiền tu hạnh Bồ Tát tột kiếp vị lai vào biển Như Lai chẳng nhàm mỏi. Như lúc mặt nhật mọc, trong ao A Nậu Ðạt, cát bạc, cát vàng, các Kim Cương, cát lưu ly và các thứ bửu vật khác đều có bóng mặt nhật hiện trong đó. Những cát bạc, vàng, kim cương, lưu ly và tất cả bửu vật cũng đều xoay vần hiện bóng nhau không trở ngại.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ tam muội này, trong mỗi mỗi lỗ lông nơi thân đều thấy bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát Vi Trần Số Chư Phật Như Lai, cũng thấy cõi nước Đạo Tràng và chúng hội của Chư Phật đó. Nơi mỗi Đức Phật, Bồ Tát này nghe pháp thọ trì, tín giải, cúng dường, đều trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết ức na do tha kiếp, mà chẳng tưởng niệm thời tiết dài vắn. Những chúng hội đó cũng không bị chật hẹp.

Tại sao vậy?

Vì Bồ Tát này dùng tâm vi diệu nhập vô biên pháp giới, vì nhập vô đẳng nghiệp quả sai biệt, vì nhập cảnh giới tam muội bất tư nghì, vì nhập cảnh giới tư duy bất tư nghì, vì nhập cảnh giới tự tại của Chư Phật, vì được tất cả Phật hộ niệm.

Vì được tất cả Phật hộ niệm, vì được đại thần biến của tất cả Phật, vì được thập lực khó biết khó được của Chư Phật, vì nhập cảnh giới hạnh viên mãn của Phổ Hiền Bồ Tát, vì được sức thần thông không mỏi nhọc của tất cả Phật.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần