Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba - Phẩm Thiện Hiện - Phần Mười Bốn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI THỨ BA  

PHẨM BA

PHẨM THIỆN HIỆN  

PHẦN MƯỜI BỐN  

Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Ðịa giới cho đến thức giới đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Vô minh cho đến lão tử đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Cảnh mộng, việc huyễn, tiếng vang, ảnh trong gương, quáng nắng, quáng mắt, hoa đốm, thành tầm hương, các việc biến hóa đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Thánh Đế khổ, tập, diệt, đạo đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Tám giải thoát, chín định thứ đệ đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Cực Hỷ Địa cho đến Pháp Vân Địa đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Năm loại mắt, sáu phép thần thông đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Bậc Dự Lưu mà lại sanh ác thú, Bậc Nhất Lai mà thường sanh lại, Bậc Bất Hoàn mà lại sanh Cõi Dục, các Đại Bồ Tát mà sanh tâm tự lợi, A La Hán, Ðộc Giác, Như Lai mà lại thường sanh thân đời sau đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Bậc Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả, Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả, Ðộc Giác hướng, Ðộc Giác quả, tất cả hạnh Đại Bồ Tát, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Bậc Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, Độc Giác Bồ Đề, Như Lai đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Danh tự, giả tưởng, thiết lập, ngôn ngữ, thuyết giảng đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Các pháp vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Khoảng trước, sau, giữa đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Hoặc qua, hoặc lại, hoặc đi, hoặc đứng đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Hoặc chết, hoặc sống, hoặc tăng, hoặc giảm đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật, thành thục hữu tình đều vô sở hữu, bất khả đắc, cho nên người tu hành đại thừa cũng bất khả đắc.

Vì sao?

Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp nào trong đây bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh ngã cho đến tánh kiến giả bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh ngã cho đến tánh kiến giả chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh chân như cho đến tánh cảnh giới bất tư nghì bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh chân như cho đến tánh cảnh giới bất tư nghì chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh cảnh giới đoạn cho đến tánh cảnh giới vô vi bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh cảnh giới đoạn cho đến tánh cảnh giới vô vi chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh sắc uẩn cho đến tánh thức uẩn bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh sắc uẩn cho đến tánh thức uẩn chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh nhãn xứ cho đến tánh ý xứ bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh nhãn xứ cho đến tánh ý xứ chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh sắc xứ cho đến tánh pháp xứ bất khả đắc, cho nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh sắc xứ cho đến tánh pháp xứ chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh nhãn giới cho đến tánh ý giới bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh nhãn giới cho đến tánh ý giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh sắc giới cho đến tánh pháp giới bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh sắc giới cho đến tánh pháp giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh nhãn thức giới cho đến tánh ý thức giới bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh nhãn thức giới cho đến tánh ý thức giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh nhãn xúc cho đến tánh ý xúc bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh nhãn xúc cho đến tánh ý xúc chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh địa giới cho đến tánh thức giới bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh địa giới cho đến tánh thức giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh nhân duyên cho đến tánh tăng thượng duyên bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh nhân duyên cho đến tánh tăng thượng duyên chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh vô minh cho đến tánh lão tử bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh vô minh cho đến tánh lão tử chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh cảnh mộng cho đến tánh của các việc biến hóa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh cảnh mộng cho đến tánh của các việc biến hóa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh bố thí Ba la mật đa cho đến tánh bát nhã Ba la mật đa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh bố thí Ba la mật đa cho đến tánh bát nhã Ba la mật đa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh pháp nội không cho đến tánh pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh pháp nội không cho đến tánh pháp vô tính tự tính không chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh bốn niệm trụ cho đến tánh tám chi Thánh đạo bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh bốn niệm trụ cho đến tánh tám chi Thánh đạo chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh Bốn Tịnh Lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh tám giải thoát, chín định thứ đệ bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh tám giải thoát, chín định thứ đệ chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh Tịnh quán địa cho đến tánh Như Lai địa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh Tịnh quán địa cho đến tánh Như Lai địa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh Cực Hỷ địa cho đến tánh Pháp Vân địa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh Cực Hỷ địa cho đến tánh Pháp Vân địa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh tất cả pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh tất cả pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh mười lực Như Lai cho đến tánh mười tám Pháp Phật bất cộng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh mười lực Như Lai cho đến tánh mười tám Pháp Phật bất cộng chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh Bậc Dự Lưu mà lại sanh ác thú, cho đến tánh Như Lai lại có sanh thân đời sau bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh Bậc Dự Lưu mà lại sanh ác thú, cho đến tánh Như Lai lại có sanh thân đời sau chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh của Bậc Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả, Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả, Ðộc giác hướng, Ðộc giác quả, tất cả hạnh Đại Bồ Tát, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh của các Bậc Dự Lưu hướng cho đến tánh quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh của Bậc Dự Lưu cho đến tánh của Như Lai bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh Bậc Dự Lưu cho đến tánh của Như Lai chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh danh tự, giả tưởng, thiết lập, ngôn ngữ, thuyết giảng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh danh tự, giả tưởng, thiết lập, ngôn ngữ, thuyết giảng chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tác, vô vi chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh giai đoạn đầu, giữa, sau bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh của giai đoạn đầu, giữa, sau chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh của hoặc qua, hoặc lại, hoặc đi, hoặc đứng bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh hoặc qua, hoặc lại, hoặc đi, hoặc đứng chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh hoặc chết, hoặc sống, hoặc tăng, hoặc giảm bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh hoặc chết, hoặc sống, hoặc tăng, hoặc giảm chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trong đây, tánh trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật, thành thục hữu tình bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì tánh trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật, thành thục hữu tình chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc cho đến thức trong pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, sắc cho đến thức chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Nhãn xứ cho đến ý xứ trong pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, nhãn xứ cho đến ý xứ chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Sắc xứ cho đến pháp xứ trong pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, sắc xứ cho đến pháp xứ chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Nhãn giới cho đến ý giới trong pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, nhãn giới cho đến ý giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Sắc Giới cho đến pháp giới trong pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, sắc giới cho đến pháp giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Nhãn thức giới cho đến ý thức giới trong pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, nhãn thức giới cho đến ý thức giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Nhãn xúc cho đến ý xúc trong pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Ðịa giới cho đến thức giới trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, địa giới cho đến thức giới chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, nhân duyên cho đến tăng thượng duyên chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Vô minh cho đến lão tử trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, vô minh cho đến lão tử chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Bố Thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Bốn Tịnh Lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, Bốn Tịnh Lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Tám giải thoát, chín định thứ đệ trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, tám giải thoát, chín định thứ đệ chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Cực Hỷ địa cho đến Pháp Vân địa trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, Cực Hỷ địa cho đến Pháp Vân địa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Tất cả pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, tất cả pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Năm loại mắt, sáu phép thần thông trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Bậc Dự Lưu hướng cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, Bậc Dự Lưu hướng cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Thiện Hiện nên biết: Trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật, thành thục hữu tình trong pháp nội không, cho đến pháp vô tính tự tính không bất khả đắc, nên nói bất khả đắc.

Vì sao?

Vì trong đây, trang nghiêm thanh tịnh Cõi Phật, thành thục hữu tình chẳng phải đã có thể đắc, chẳng phải sẽ có thể đắc, chẳng phải hiện tại có thể đắc. Vì hoàn toàn thanh tịnh.

Như vậy, Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát khi thực hành bát nhã Ba la mật đa, tuy quán các pháp đều vô sở hữu, đều bất khả đắc, hoàn toàn thanh tịnh, cho nên không có người đại thừa xuất trụ. Nhưng dùng vô sở đắc làm phương tiện để đại thừa từ trong ba đường sanh tử, đến an trụ nơi trí nhất thiết trí, suốt đời vị lai làm lợi ích an lạc cho loài hữu tình, không đoạn, không tận.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần