Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Năm Mươi - Phẩm Sơ Nghiệp - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
HỘI THỨ HAI
PHẨM NĂM MƯƠI
PHẨM SƠ NGHIỆP
PHẦN MỘT
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát sơ phát tâm làm thế nào học bát nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa?
Phật dạy: Thiện Hiện! Đại Bồ Tát sơ phát tâm, nếu muốn tu học bát nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa, trước nên thân cận thừa sự, cúng dường chân thiện tri thức giỏi tuyên nói bát nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa.
Nghĩa là khi thuyết, dạy bảo, truyền trao Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa sâu xa, Đại Bồ Tát sơ phát tâm nói: Thiện nam tử đến đây, ông hãy siêng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Khi ông siêng tu, nên dùng vô sở đắc làm phương tiện đối xử với tất cả hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy sắc mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy thọ, tưởng, hành, thức mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Ông chớ lấy nhãn xứ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy sắc xứ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Ông chớ lấy nhãn giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy sắc giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Ông chớ lấy nhãn thức giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy nhãn xúc mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Ông chớ lấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Ông chớ lấy bố thí Ba la mật đa mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy pháp nội không không của các pháp nội tại mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Cũng chớ lấy pháp ngoại không không của các pháp ngoại tại, nội ngoại không không của các pháp nội ngoại tại, không không không của không, đại không không lớn, thắng nghĩa không không của chân lý cứu cánh, hữu vi không không của các pháp hữu vi.
Vô vi không không của các pháp vô vi, tất cánh không không tối hậu rốt ráo, vô tế không không không biên tế, tán vô tán không không của sự không phân tán, bản tính không không của bản tính tự nhiên tính, tự cộng tướng không không của tự cộng tướng.
Nhất thiết pháp không không của vạn hữu, bất khả đắc không không của cái bất khả đắc, vô tính không không của vô thể cái không tồn tại, tự tính không không của tự tính, vô tính tự tính không không của vô thể của tự tính tự tính của cái không tồn tại mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy chân như mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Cũng chớ lấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Ông chớ lấy Thánh đế khổ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy Thánh đế tập, diệt, đạo mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy bốn tịnh lự mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Ông chớ lấy tám giải thoát mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy bốn niệm trụ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Cũng chớ lấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy pháp môn giải thoát không mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Ông chớ lấy năm loại mắt mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy sáu phép thần thông mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy mười lực Phật mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Cũng chớ lấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy ba mươi hai tướng Đại Sĩ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Cũng chớ lấy tám mươi vẻ đẹp mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy pháp không quên mất mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy tánh luôn luôn xả mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Ông chớ lấy pháp môn Đà La Ni mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy pháp môn Tam Ma Địa mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy trí nhất thiết mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Cũng chớ lấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột.
Vì sao?
Nếu không lấy sắc thì được quả vị giác ngộ cao tột. Không lấy thọ, tưởng, hành, thức thì được quả vị giác ngộ cao tột. Như vậy, cho đến nếu không lấy trí nhất thiết thì được quả vị giác ngộ cao tột. Không lấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì được quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Nam Tử! Khi ông tu hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, chớ đối với sắc sanh tham ái.
Chớ đối với thọ, tưởng, hành, thức sanh tham ái.
Vì sao?
Vì sắc cho đến thức không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với nhãn xứ sanh tham ái.
Chớ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ sanh tham ái.
Vì sao?
Vì nhãn xứ cho đến ý xứ không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với sắc xứ sanh tham ái.
Chớ đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ sanh tham ái.
Vì sao?
Vì sắc xứ cho đến pháp xứ không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với nhãn giới sanh tham ái.
Chớ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới sanh tham ái.
Vì sao?
Vì nhãn giới cho đến ý giới không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với sắc giới sanh tham ái.
Chớ đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới sanh tham ái.
Vì sao?
Vì sắc giới cho đến pháp giới không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với nhãn thức giới sanh tham ái.
Chớ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới sanh tham ái.
Vì sao? Vì nhãn thức giới cho đến ý thức giới không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với nhãn xúc sanh tham ái.
Chớ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sanh tham ái.
Vì sao?
Vì nhãn xúc cho đến ý xúc không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra sanh tham ái.
Chớ đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra sanh tham ái.
Vì sao?
Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với bố thí Ba la mật đa sanh tham ái.
Chớ đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa sanh tham ái.
Vì sao?
Vì bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với pháp nội không không của các pháp nội tại sanh tham ái.
Chớ đối với pháp ngoại không không của các pháp ngoại tại, nội ngoại không không của các pháp nội ngoại tại, không không không của không, đại không không lớn, thắng nghĩa không không của chân lý cứu cánh, hữu vi không không của các pháp hữu vi.
Vô vi không không của các pháp vô vi, tất cánh không không tối hậu rốt ráo, vô tế không không không biên tế, tán vô tán không không của sự không phân tán, bản tính không không của bản tính tự nhiên tính, tự cộng tướng không không của tự cộng tướng.
Nhất thiết pháp không không của vạn hữu, bất khả đắc không không của cái bất khả đắc, vô tính không không của vô thể cái không tồn tại, tự tính không không của tự tính, vô tính tự tính không không của vô thể của tự tính tự tính của cái không tồn tại sanh tham ái.
Vì sao?
Vì pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với chân như sanh tham ái.
Chớ đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì sanh tham ái.
Vì sao?
Vì chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với Thánh đế khổ sanh tham ái. Chớ đối với Thánh đế tập, diệt, đạo sanh tham ái.
Vì sao?
Vì Thánh đế Khổ cho đến Thánh đế đạo không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với bốn tịnh lự sanh tham ái.
Chớ đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc sanh tham ái.
Vì sao?
Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với tám giải thoát sanh tham ái.
Chớ đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ sanh tham ái.
Vì sao?
Vì tám giải thoát cho đến mười biến xứ không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với bốn niệm trụ sanh tham ái.
Chớ đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo sanh tham ái.
Vì sao?
Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với pháp môn giải thoát không sanh tham ái. Chớ đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện sanh tham ái.
Vì sao?
Vì không, vô tuớng, vô nguyện giải thoát môn không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với năm loại mắt sanh tham ái.
Chớ đối với sáu phép thần thông sanh tham ái.
Vì sao?
Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với mười lực Phật sanh tham ái.
Chớ đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng sanh tham ái.
Vì sao?
Vì mười lực Phật cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với ba mươi hai tướng Ðại Sĩ sanh tham ái.
Chớ đối với tám mươi vẻ đẹp sanh tham ái.
Vì sao?
Vì ba mươi hai tướng Ðại Sĩ, tám mươi vẻ đẹp không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với pháp không quên mất sanh tham ái. Chớ đối với tánh luôn luôn xả sanh tham ái.
Vì sao?
Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với pháp môn Đà La Ni sanh tham ái. Chớ đối với pháp môn Tam Ma Địa sanh tham ái.
Vì sao?
Vì pháp môn Ðà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với trí nhất thiết sanh tham ái.
Chớ đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng sanh tham ái.
Vì sao?
Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với quả Dự Lưu sanh tham ái.
Chớ đối với quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, Ðộc Giác Bồ Đề sanh tham ái.
Vì sao?
Vì quả Dự Lưu cho đến Ðộc Giác Bồ Đề không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Chớ đối với tất cả hạnh Đại Bồ Tát sanh tham ái.
Chớ đối với quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật sanh tham ái.
Vì sao?
Vì tất cả hạnh Đại Bồ Tát, quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật không thể tham ái.
Vì sao?
Vì tự tánh tất cả pháp là không.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát thường làm việc khó làm, trong tự tánh không của tất cả pháp mong cầu quả vị giác ngộ cao tột, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột?
Phật dạy: Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy!
Như ông đã nói, các Đại Bồ Tát thường làm việc khó làm, trong tự tánh không của tất cả pháp mong cầu quả vị giác ngộ cao tột, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát tuy đạt tất cả pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như ảnh, như bóng sáng, như sóng nắng, như việc biến hoá, như thành Tầm hương ảnh ảo, tự tánh đều không, nhưng vì thế gian được nghĩa lợi nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Vì làm cho thế gian được lợi ích, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm cho thế gian được an vui, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Vì muốn cứu vớt các thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm nơi nương tựa cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm nhà cửa cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Muốn chỉ đường rốt ráo cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Vì làm hòn đảo cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm nhật nguyệt cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm đèn đuốc cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Vì làm thầy dẫn đường cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm tướng soái cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm chỗ đến cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Thương xót khổ sanh tử của thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ Tát vì các thế gian được nghĩa lợi, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột?
Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát vì muốn giải thoát các việc khổ não cho tất cả hữu tình, phương tiện tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Ðó là Đại Bồ Tát vì các thế gian được nghĩa lợi nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ Tát vì làm cho thế gian được lợi ích, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột?
Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát vì muốn tự trụ sáu pháp Ba la mật đa, phương tiện khuyên dẫn các loài hữu tình, giúp họ an trụ sáu pháp Ba la mật đa, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Ðó là Đại Bồ Tát vì muốn làm cho thế gian được lợi ích nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ Tát vì làm cho thế gian được an vui, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột?
Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát vì muốn tự trụ mười thiện nghiệp đạo, phương tiện khuyên dẫn các loài hữu tình, giúp họ an trụ mười thiện nghiệp đạo, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Ðó là Đại Bồ Tát vì làm cho thế gian được an vui nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ Tát vì muốn cứu vớt các thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột?
Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát thấy các hữu tình đọa vào ba đường ác, muốn cứu vớt làm cho tu thiện nghiệp được chỗ yên, thanh nhàn, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Ðó là Đại Bồ Tát vì muốn cứu vớt các thế gian nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ Tát vì muốn làm nơi nương tựa cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột?
Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát muốn vì hữu tình nói pháp không nương tựa. Nghĩa là sắc không nương tựa. Thọ, tưởng, hành, thức không nương tựa. Như vậy, cho đến trí nhất thiết không nương tựa. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không nương tựa, làm cho các hữu tình sau khi nghe xong được giải thoát tất cả sanh, lão, bệnh, tử và sầu, than, khổ, ưu, não. Do đó nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Ðó là Đại Bồ Tát làm chỗ quay về cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ Tát vì làm nhà cửa cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột?
Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát muốn làm nơi nương tựa cho các hữu tình, và làm cho họ đến được cung đại Niết Bàn không sợ hãi, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Ðó là Đại Bồ Tát vì làm nhà cửa cho thế gian nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ Tát muốn chỉ đường rốt ráo cho thế gian nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột?
Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát thấy các hữu tình không thông thạo hoàn toàn về tướng đường thiện, đường ác, chỉ biết dạo chơi các đường tham dục, nên muốn dùng phương tiện tuyên nói pháp yếu làm cho họ biết rõ tướng đường rốt ráo, hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.
Muốn nói những pháp yếu nào cho các hữu tình?
Đó là nói về sắc rốt ráo thường không sợ hãi. Nói về thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo thường không sợ hãi. Như vậy, cho đến nói về trí nhất thiết rốt ráo thường không sợ hại. Nói về trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo thường không sợ hãi.
Nói về sắc rốt ráo tức chẳng phải sắc. Nói về thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến nói về trí nhất thiết rốt ráo tức chẳng phải trí nhất thiết. Nói về trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo tức chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Phổ Diệu - Phẩm Mười - Phẩm Thi Tài Nghệ
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Mười - Phẩm Hộ Tâm
Phật Thuyết Kinh Văn Thù Sư Lợi Phổ Siêu Tam Muội - Phẩm Ba - Phẩm Cử Bát - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh ðoạn Tận ái - Phần Mười Sáu - Kết Luận
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Một - Phẩm đại - Kinh Thỉnh Thỉnh
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Luật Nghi Bất Luật Nghi
Phật Thuyết Kinh Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Bất Không Vương Bí Mật Tâm đà La Ni
Phật Thuyết Kinh Lục độ Tập - Chương Một - Bố Thí độ Vô Cực - Kinh Số Hai Mươi
Phật Thuyết Kinh Na Tiên Tỳ Kheo - Phẩm Hai Mươi Mốt - Phẩm Xúc