Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Sáu - Phẩm Thiện Hiện - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI THỨ HAI  

PHẨM SÁU

PHẨM THIỆN HIỆN  

PHẦN MỘT  

Lúc bấy giờ, Phật Bảo Tôn Giả Thiện Hiện: Ông hãy đem biện tài tùy theo chúng Đại Bồ Tát mà giảng nói pháp tương ưng với bát nhã Ba la mật đa, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ Tát, làm cho họ thành tựu bát nhã Ba la mật đa.

Khi ấy, các Đại Bồ Tát, Đại Thanh Văn, Chư Thiên, nhơn v.v… đều nghĩ: Tôn Giả Thiện Hiện đem biện tài của mình tùy theo chúng Đại Bồ Tát mà giảng nói pháp tương ưng với bát nhã Ba la mật đa, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ Tát, làm cho họ thành tựu bát nhã Ba la mật đa, đó có phải là nhờ oai lực của Phật không?

Tôn Giả Thiện Hiện biết tâm niệm của các chúng Đại Bồ Tát, Đại Thanh Văn, Chư Thiên, nhơn liền bảo Tôn Giả Xá Lợi Tử: Các đệ tử Phật phàm nói ra điều gì tất cả đều nhờ oai lực của Phật.

Vì sao?

Này Xá Lợi Tử! Như Lai giảng nói pháp yếu cho chúng sanh, các pháp tánh thường không trái nhau. Các đệ tử Phật nương vào pháp ấy, siêng hay tu học, chứng thật tánh các pháp. Do đó, những pháp mà Ngài nói cùng với pháp tánh không trái nhau. Nên lời Phật nói như ngọn đèn truyền sáng mãi.

Này Xá Lợi Tử! Nhờ oai lực của Phật gia hộ, ta sẽ tùy theo chúng Đại Bồ Tát mà giảng nói pháp tương ưng với bát nhã Ba la mật đa, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ Tát, làm cho họ thành tựu bát nhã Ba la mật đa, chẳng phải là biện tài của mình có thể làm được việc này.

Vì sao?

Này Xá Lợi Tử! Vì bát nhã Ba la mật đa thâm sâu không phải là cảnh giới của các Thanh Văn, Độc Giác.

Bấy giờ, Tôn Giả Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Như Phật nói, các Đại Bồ Tát trong đây, pháp nào gọi là Đại Bồ Tát?

Bạch Thế Tôn! Con đều không thấy có một pháp nào có thể gọi là Đại Bồ Tát, cũng không thấy có một pháp có thể gọi là bát nhã Ba la mật đa.

Hai tên như thế con đều không thấy thì làm sao con có thể tùy chúng Đại Bồ Tát mà giảng nói pháp tương ưng với bát nhã Ba la mật đa, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ Tát, làm cho họ thành tựu bát nhã Ba la mật đa?

Phật Bảo Thiện Hiện: Đại Bồ Tát chỉ có tên, bát nhã Ba la mật đa cũng chỉ có tên, hai tên như thế cũng chỉ có tên.

Này Thiện Hiện! Hai tên này không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Này Thiện Hiện! Nên biết, như ngã ở thế gian chỉ có giả danh. Giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là ngã. Như vậy, hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi dưỡng, sĩ phu, Bổ Đặc Già La, ý sanh, đồng tử, người làm, người nhận, người biết, người thấy cũng chỉ có giả danh.

Giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, nghĩa là hữu tình cho đến người thấy, tất cả. Như vậy, chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa, nếu hai tên này đều là giả pháp. Giả pháp như thế đều là không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Như bên trong các sắc chỉ là giả pháp. Giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập mà gọi là sắc. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức cũng chỉ là giả pháp. Giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa, nếu hai tên này đều là giả pháp. Giả pháp như thế thì không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như nhãn xứ chỉ là giả pháp. Giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là nhãn xứ. Như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chỉ là giả pháp. Giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa, nếu hai tên này đều là giả pháp. Giả pháp như thế thì không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thí như sắc xứ chỉ là giả pháp. Giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là sắc xứ. Như vậy, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chỉ là giả pháp. Giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa, nếu hai tên này đều là giả pháp. Giả pháp như thế, không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thí như nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới chỉ là giả pháp. Giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới. Như vậy, nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới. Tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới. Thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới. Thân giới, xúc giới, thân thức giới. Ý giới, pháp giới, ý thức giới cũng chỉ là giả pháp. 

Giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ Tát hoặc bát nhã Ba la mật đa, nếu hai tên này đều là giả pháp. Giả pháp như thế, không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thí như trong thân có đầu, cổ, vai, bắp tay, cánh tay, bụng, lưng, ngực, hông, eo, xương sống, đùi, đầu gối, bắp chân, ống chân, da, thịt, xương, tủy chỉ có giả danh. Giả danh như thế không sanh, không diệt chỉ giả lập mà gọi là các vật đầu, cổ trong thân. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa, nếu hai tên này đều là giả pháp. Giả pháp như thế thì không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như các vật bên ngoài như: Cỏ cây, gốc, cành, lá, hoa, quả v.v… chỉ có giả danh. Giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là các vật bên ngoài cỏ, cây, gốc v.v… Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa, nếu hai tên này đều là giả danh. Giả pháp như thế không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như Chư Phật quá khứ, vị lai chỉ có giả danh. Giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là Chư Phật quá khứ, vị lai. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa, nếu hai tên này đều là giả pháp. Giả pháp như thế, không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ví như cảnh trong mộng, tiếng vang, bóng sáng, việc huyễn, sóng nắng, trăng dưới nước, biến hóa chỉ có giả danh. Giả danh như thế không sanh, không diệt, chỉ giả lập mà gọi là cảnh trong mộng cho đến biến hóa. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa, nếu hai tên này đều là giả pháp. Giả pháp như thế, không sanh, không diệt, chỉ là giả lập, không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa nên bất khả đắc.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, đối với tất cả pháp, tên giả, pháp giả và phương tiện giả nên phải tu học.

Vì sao?

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, không nên quán danh sắc hoặc thường, hoặc vô thường. Không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh sắc hoặc vui, hoặc khổ. Không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã. Không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh sắc hoặc không, hoặc bất không. Không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh sắc hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng. Không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh sắc hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh sắc hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh. Không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh sắc hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly. Không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh sắc hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh. Không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh sắc hoặc sanh, hoặc diệt. Không nên quán danh thọ, tưởng, hành, thức hoặc sanh, hoặc diệt.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, không nên quán danh nhãn xứ hoặc thường, hoặc vô thường. Không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc vui, hoặc khổ. Không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc không, hoặc bất không. Không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng. Không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh. Không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly. Không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh. Không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh nhãn xứ hoặc sanh, hoặc diệt. Không nên quán danh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc sanh, hoặc diệt.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, không nên quán danh sắc xứ hoặc thường, hoặc vô thường. Không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc vui, hoặc khổ. Không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã. Không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc không, hoặc bất không. Không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng. Không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh. Không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly. Không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh. Không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh sắc xứ hoặc sanh, hoặc diệt. Không nên quán danh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc sanh, hoặc diệt.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tu hành bát nhã Ba la mật đa các Đại Bồ Tát không nên quán danh nhãn giới hoặc thường, hoặc vô thường. Không nên quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng tên của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc vui, hoặc khổ. Không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc ngã, hoặc vô ngã. Không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc không, hoặc bất không. Không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng. Không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh. Không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly. Không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh. Không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh nhãn giới hoặc sanh, hoặc diệt. Không nên quán sắc giới cho đến danh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc thường, hoặc vô thường. Không nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng với danh của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc vui, hoặc khổ. Không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc ngã, hoặc vô ngã. Không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc không, hoặc bất không. Không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc hữu tướng hoặc vô tướng. Không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng hoặc vô tướng.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh. Không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly. Không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh. Không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh nhĩ giới hoặc sanh, hoặc diệt. Không nên quán thanh giới cho đến danh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc thường, hoặc vô thường. Không nên quán hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng với danh của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc vui, hoặc khổ. Không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc ngã, hoặc vô ngã. Không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc không, hoặc bất không. Không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng. Không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh. Không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly. Không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh. Không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh tỷ giới hoặc sanh, hoặc diệt. Không nên quán hương giới cho đến danh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc thường, hoặc vô thường. Không nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng với danh của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc vui, hoặc khổ. Không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc ngã, hoặc vô ngã. Không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc không, hoặc bất không. Không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng. Không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh. Không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly. Không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh. Không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh thiệt giới hoặc sanh, hoặc diệt. Không nên quán vị giới cho đến danh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh thân giới hoặc thường, hoặc vô thường. Không nên quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng với danh của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh thân giới hoặc vui, hoặc khổ. Không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh thân giới hoặc ngã, hoặc vô ngã. Không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh thân giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh thân giới hoặc không, hoặc bất không. Không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh thân giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng. Không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh thân giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh thân giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh. Không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh thân giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly. Không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh thân giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh. Không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh thân giới hoặc sanh, hoặc diệt. Không nên quán xúc giới cho đến danh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Không nên quán danh ý giới hoặc thường, hoặc vô thường. Không nên quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng với danh của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.

Không nên quán danh ý giới hoặc vui, hoặc khổ. Không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc vui, hoặc khổ.

Không nên quán danh ý giới hoặc ngã, hoặc vô ngã. Không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.

Không nên quán danh ý giới hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.

Không nên quán danh ý giới hoặc không, hoặc bất không. Không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc không, hoặc bất không.

Không nên quán danh ý giới hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng. Không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu tướng, hoặc vô tướng.

Không nên quán danh ý giới hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện. Không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc hữu nguyện, hoặc vô nguyện.

Không nên quán danh ý giới hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh. Không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tịch tịnh, hoặc bất tịch tịnh.

Không nên quán danh ý giới hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly. Không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc viễn ly, hoặc không viễn ly.

Không nên quán danh ý giới hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh. Không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh.

Không nên quán danh ý giới hoặc sanh, hoặc diệt. Không nên quán pháp giới cho đến danh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc sanh, hoặc diệt.

Vì sao?

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ Tát này khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, hoặc Đại Bồ Tát, hoặc danh Đại Bồ Tát, hoặc bát nhã Ba la mật đa, hoặc danh bát nhã Ba la mật đa, đều không thấy ở trong giới hữu vi, cũng không thấy ở trong giới vô vi.

Vì sao?

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ Tát này khi tu hành bát nhã Ba la mật đa đối với tất cả pháp không phân biệt, không khác với phân biệt.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này khi tu hành bát nhã Ba la mật đa an trụ trong phân biệt nhất thiết pháp, không thấy Đại Bồ Tát, không thấy danh Đại Bồ Tát, không thấy bát nhã Ba la mật đa, không thấy danh bát nhã Ba la mật đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này khi tu hành bát nhã Ba la mật đa hay tu Bố Thí Ba la mật đa. Cũng hay tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Hay trụ pháp không nội.

Cũng hay trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không chẳng đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không không thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Hay trụ chân như. Cũng hay trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Hay tu bốn niệm trụ. Cũng hay tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo. Hay trụ Thánh Đế khổ, cũng hay trụ Thánh Đế tập, diệt, đạo.

Hay tu bốn tịnh lự, cũng hay tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hay tu tám giải thoát, cũng hay tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Hay tu pháp môn giải thoát không, cũng hay tu vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện.

Hay tu tất cả môn Đà La Ni, cũng hay tu tất cả môn Tam Ma Địa. Hay tu năm loại mắt, cũng hay tu sáu phép thần thông. Hay tu mười lực của Phật, cũng hay tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng.

Đại Bồ Tát này vào lúc đó không thấy Đại Bồ Tát, không thấy danh Đại Bồ Tát, không thấy bát nhã Ba la mật đa, không thấy danh bát nhã Ba la mật đa.

Vì sao?

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ Tát này tu hành bát nhã Ba la mật đa đối với tất cả pháp khéo thông đạt thật tướng, và trong ấy khéo thông đạt pháp không tạp nhiễm, pháp thanh tịnh.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa hiểu biết tất cả pháp danh giả lập, pháp giả lập.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này đã hiểu biết như thật danh pháp giả rồi nên không chấp trước sắc, không chấp trước thọ, tưởng, hành, thức. Không chấp trước nhãn xứ, không chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Không chấp trước sắc xứ, không chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Không chấp trước nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến không chấp trước ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Không chấp trước giới hữu vi, không chấp trước giới vô vi.

Không chấp trước bố thí Ba la mật đa. Không chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Không chấp trước các tướng tốt, không chấp trước thân Bồ Tát, không chấp trước nhục nhãn cho đến Phật Nhãn.

Không chấp trước trí Ba la mật đa và thần thông Ba la mật đa.

Không chấp trước pháp không nội cho đến pháp không, không tánh tự tánh.

Không chấp trước sự thành thục hữu tình, không chấp trước việc nghiêm tịnh Cõi Phật, không chấp trước phương tiện quyền xảo.

Vì sao?

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, năng trước, sở trước, trước xứ, trước thời đều bất khả đắc.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần