Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Tám Mươi - Phẩm đạo Sĩ - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI THỨ HAI  

PHẨM TÁM MƯƠI

PHẨM ĐẠO SĨ

PHẦN MỘT  

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện suy nghĩ: Đạo của Đại Bồ Tát như thế nào mà các Đại Bồ Tát an trụ vào đạo này có thể mặc những loại áo giáp công đức thù thắng và như thật làm lợi ích cho tất cả hữu tình?

Biết tâm niệm của cụ thọ Thiện Hiện, Đức Thế Tôn liền bảo: Này Thiện Hiện! Nên biết, bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa là đạo của các Đại Bồ Tát. Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo là đạo của các Đại Bồ Tát. Pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không là đạo của các Đại Bồ Tát.

Chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì là đạo của các Đại Bồ Tát. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là đạo của các Đại Bồ Tát. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là đạo của các Đại Bồ Tát.

Tám giải thoát cho đến mười biến xứ là đạo của các Đại Bồ Tát. pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện là đạo của các Đại Bồ Tát. Cực Hỷ Địa cho đến Pháp Vân địa là đạo của các Đại Bồ Tát. Tất cả môn Đà La Ni, môn Tam Ma Địa là đạo của các Đại Bồ Tát. Năm loại mắt, sáu phép thần thông là đạo của các Đại Bồ Tát.

Mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng là đạo của các Đại Bồ Tát. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là đạo của các Đại Bồ Tát. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là đạo của các Đại Bồ Tát. Vô lượng, vô biên Phật Pháp khác là đạo của các Đại Bồ Tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nói chung tất cả pháp đều là đạo của các Đại Bồ Tát.

Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào?

Vậy thì có pháp nào mà các Đại Bồ Tát không nên học không?

Nếu các Đại Bồ Tát không học pháp đó thì có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề không?

Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật Bảo Thiện Hiện: Đúng vậy! Đúng vậy! Nhất định không có một pháp nào mà Đại Bồ Tát không nên học. Nếu các Đại Bồ Tát không học pháp ấy thì chắc chắn không thể cầu được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Vì sao?

Vì nếu Đại Bồ Tát không học tất cả pháp, thì nhất định không thể đạt được trí thất thiết trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Nếu tự tánh của tất cả các pháp đều là không.

Vì sao?

Đại Bồ Tát cần phải học vậy thì học ở chỗ nào?

Nếu có sự học thì Bạch Thế Tôn không lẽ đối với pháp không hý luận mà làm ra hý luận, cho là có các pháp là đây, là kia, do thế này, là thế kia. Ðây là thế gian, đây là xuất thế gian, đây là hữu lậu, đây là vô lậu, đây là hữu vi, đây là vô vi.

Ðây là pháp phàm phu, đây là pháp Dự Lưu, đây là pháp Nhất Lai, đây là pháp Bất Hoàn, đây là pháp A La Hán, đây là pháp Ðộc Giác, đây là pháp Bồ Tát, đây là pháp Như Lai?

Phật Bảo Thiện Hiện: Đúng vậy! Đúng vậy! Này Thiện Hiện! Như lời ông đã nói, tự tánh của các pháp sở hữu đều không, hoặc tất cả các pháp chẳng phải tự tánh không, thì Đại Bồ Tát sẽ không chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Do tự tánh của tất cả pháp đều không, cho nên Đại Bồ Tát có thể chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Này Thiện Hiện! Như lời ông đã nói, nếu tự tánh của tất cả pháp đều không. Vì sao Đại Bồ Tát cần phải học, vậy thì học ở đâu. Nếu có chỗ học thì bạch Thế Tôn không lẽ đối với pháp không hý luận mà tạo ra hý luận, cho là có các pháp là đây, là kia, do thế này, là thế kia. Nói đủ cho đến đây là pháp của Như Lai.

Này Thiện Hiện! Nếu các hữu tình biết tự tánh tất cả pháp đều không, thì các Đại Bồ Tát không cần học tất cả pháp để chứng đắc trí thất thiết trí, hãy vì các hữu tình mà tìm phương cách để giáo hóa, bởi vì các hữu tình không biết tự tánh các pháp đều không. Các Đại Bồ Tát nhất định phải học tất cả pháp, để chứng đắc trí thất thiết trí, vì các hữu tình mà lập những phương cách để giáo hóa.

Này Thiện Hiện! Ông nên biết các Đại Bồ Tát khi mới tu học Bồ Tát đạo, nên quán sát thật kỹ các pháp tự tánh nó đều không thể đắc, chỉ do chấp trước, hoà hợp mà tạo ra, nên quán sát thật kỹ tự tánh của các pháp hoàn toàn không, ở trong đó không nên chấp trước. Nghĩa là không nên chấp trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Không nên chấp trước nhãn xứ cho đến ý xứ. Không nên chấp trước sắc xứ cho đến pháp xứ. Không nên chấp trước nhãn giới cho đến ý giới. Không nên chấp trước sắc giới cho đến pháp giới. Không nên chấp trước nhãn thức giới cho đến ý thức giới.

Không nên chấp trước nhãn xúc cho đến ý xúc. Không nên chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Không nên chấp trước địa giới cho đến thức giới. Không nên chấp trước nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Không nên chấp trước các pháp do duyên sanh.

Không nên chấp trước vô minh cho đến lão tử. Không nên chấp trước bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa. Không nên chấp trước pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Không nên chấp trước chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Không nên chấp trước Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Không nên chấp trước bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Không nên chấp trước bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Không nên chấp trước tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Không nên chấp trước pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Không nên chấp trước Tịnh Quán Địa cho đến Như Lai địa. Không nên chấp trước Cực Hỷ Địa cho đến Pháp Vân địa. Không nên chấp trước tất cả môn Đà La Ni, môn Tam Ma Địa.

Không nên chấp trước năm loại mắt, sáu phép thần thông. Không nên chấp trước mười lực của Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Không nên chấp trước ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Bậc Đại Sĩ. Không nên chấp trước pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Không nên chấp trước trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Không nên chấp trước quả Dự Lưu cho đến Ðộc Giác Bồ Đề. Không nên chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ Tát. Không nên chấp trước quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật.

Vì sao?

Vì tự tánh của tất cả pháp đều không. Vì tánh không nên không chấp trước. Tánh không trong cái không của tánh không còn không thể đắc, huống chi có tánh không mà chấp trước cái không.

Này Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ Tát quán sát tất cả pháp như vậy, đối với tánh của các pháp tuy không chấp trước, nhưng với các pháp phải học hỏi không nhàm chán. Đại Bồ Tát ấy trụ trong sự học này mà quán tâm hành sai khác của các hữu tình. Nghĩa là quán sát tâm hành của các hữu tình ở đâu. Sau khi quán sát rồi biết rõ như thật tâm của họ chỉ do hư vọng mà chấp.

Bấy giờ, Bồ Tát suy nghĩ: Tâm kia chỉ do hư vọng mà chấp lấy. Nay ta hãy làm cho họ giải thoát chắc chắn không khó.

Suy nghĩ như vậy rồi, Đại Bồ Tát an trụ vào bát nhã Ba la mật đa, dùng phương tiện thiện xảo khuyên răn, dạy bảo nói với các hữu tình: Bây giờ các ngươi hãy tránh xa những kiến chấp do hư vọng để đi vào chánh pháp, tu tập các hạnh lành.

Lại nói: Bây giờ các ngươi nên thực hành bố thí để được đầy đủ tư lương không còn thiếu kém, chớ nên ỷ vào đó mà sanh lòng kiêu mạn, buông lung.

Vì sao?

Vì trong ấy hoàn toàn không có gì lâu bền chắc thật. Bây giờ các ngươi nên tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã sẽ được đầy đủ những loại công đức, nhưng đừng ỷ vào đó mà sanh lòng kiêu mạn, buông lung.

Vì sao?

Vì trong ấy hoàn toàn không có lâu bền, chắc thật. Bây giờ các ngươi nên hành pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Nên hành chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nên hành Thánh Đế khổ, tập, diệt, đạo.

Nên hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Nên hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Nên hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Nên hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Nên hành Tịnh Quán Địa cho đến Như Lai Địa. Nên hành Cực Hỷ Địa cho đến Pháp Vân Địa.

Nên hành tất cả pháp môn Đà La Ni, môn Tam Ma Địa. Nên hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Nên hành mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng. Nên hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Nên hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Nên hành quả Dự Lưu cho đến Ðộc Giác Bồ Đề. Nên hành tất cả hạnh Đại Bồ Tát. Nên hành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật. Nên hành vô lượng các Phật Pháp khác, nhưng đừng ỷ vào đó mà sanh tâm ngã mạn, buông lung.

Vì sao?

Vì trong ấy đều không có gì lâu bền, chắc thật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy an trụ vào bát nhã Ba la mật đa khi dùng phương tiện thiện xảo khuyên răn, dạy bảo cho các hữu tình hành đạo Bồ Tát nhưng không chấp trước.

Vì sao?

Không nên chấp trước vào tánh của tất cả pháp, hoặc năng chấp trước, hoặc sở chấp trước, chấp trước thời gian, chấp trước nơi chốn, hoàn toàn không có tự tánh, vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Này Thiện Hiện! Khi các Đại Bồ Tát tu hành đạo của Bồ Tát như vậy, thì đối với tất cả pháp đều không có chỗ trụ. Lấy không có chỗ trụ mà làm phương tiện. Tuy hành bố thí Ba la mật đa cho đến bát nhã Ba la mật đa nhưng trong đó không có chỗ trụ.

Tuy hành pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, nhưng trong đó không có chỗ trụ. Tuy hành chân như cho đến cảnh giới bất tư nghì nhưng trong đó đều không có chỗ trụ.

Tuy hành Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo nhưng trong đó đều không có chỗ trụ.

Tuy hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ nhưng trong đó đều không có chỗ trụ.

Tuy hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành Tịnh Quán Địa cho đến Như Lai địa nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành Cực Hỷ Địa cho đến Pháp Vân Địa nhưng trong đó đều không có chỗ trụ.

Tuy hành tất cả pháp môn Đà La Ni, pháp môn Tam Ma Địa nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành năm loại mắt, sáu phép thần thông nhưng trong đó đều không có chỗ trụ.

Tuy hành mười lực Như Lai cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả nhưng trong đó đều không có chỗ trụ.

Tuy hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành quả Dự Lưu cho đến Ðộc Giác Bồ Đề nhưng trong đó đều không có chỗ trụ.

Tuy hành tất cả hạnh Đại Bồ Tát nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật nhưng trong đó đều không có chỗ trụ. Tuy hành vô lượng các Phật Pháp khác nhưng trong đó đều không có chỗ trụ.

Vì sao?

Vì tự tánh của hành giả và hành tướng tất cả đều không, ở trong đó hoàn toàn không có chỗ trụ.

Này Thiện Hiện! Nên biết các Đại Bồ Tát mặc dù có thể chứng đắc quả Dự Lưu cho đến Ðộc Giác Bồ Đề, nhưng trong đó không muốn trụ vào chỗ chứng.

Vì sao?

Vì có hai lý do.

Hai lý do đó là: Một là quả vị ấy hoàn toàn không có tự tánh. Người có thể trụ và pháp được trụ đều không thể đắc. Hai là đối với quả vị ấy không thỏa mãn. Cho nên đối với quả vị ấy không muốn trụ vào chỗ chứng.

Nghĩa là các Bồ Tát thường nghĩ như vậy: Ta phải chứng đắc quả Dự Lưu cho đến Ðộc Giác Bồ Đề, không thể không chứng đắc. Nhưng ở trong đó không nên trụ vào quả vị đã chứng.

Vì sao?

Vì từ lúc ta mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề cho đến nay, không bao giờ có tư tưởng khác chỉ cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Nhưng ta nhất định phải chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, không lẽ ở trong thời gian đó trụ quả khác?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy từ mới phát tâm cho đến khi nhập chánh tánh ly sanh của Bồ Tát chưa từng có tư tưởng khác, chỉ cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy từ lúc chứng đắc sơ địa lần lượt chứng đắc địa thứ mười chưa từng có tư tưởng khác, chỉ mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy một lòng cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, đối với tất cả thời tâm không tán loạn. Hoạt động của thân, khẩu, ý nghiệp hoàn toàn tương ưng với tâm Bồ Đề.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy trụ vào tâm Bồ Đề để hành đạo Bồ Đề, không bị những việc khác làm quấy nhiễu tâm mình.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các pháp hoàn toàn không sanh thì vì sao nói Đại Bồ Tát hành đạo bồ đề?

Phật Bảo: Đúng vậy! Đúng vậy! Theo lời ông nói, tất cả các pháp đều không sanh, nhưng ở đây sao lại nói các pháp không tạo tác, không có kết quả của sự tạo tác, nên biết tất cả pháp đều không sanh?

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Có phải chăng Chư Phật dù xuất hiện ở thế gian hay không xuất hiện ở thế gian thì pháp giới của các pháp là pháp thường trú như vậy?

Phật Bảo: Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng các hữu tình không thể hiểu rõ pháp giới của các pháp là pháp thường trụ như vậy, nên luân hồi trong sanh tử, chịu các khổ não. Các Đại Bồ Tát vì làm lợi ích cho họ, mà hành đạo bồ đề. Nhờ đạo bồ đề mà làm cho các hữu tình hoàn toàn giải thoát các khổ sanh tử và chứng đắc Niết Bàn thường lạc thanh lương.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Các Đại Bồ Tát nhờ dụng đạo sanh mà chứng bồ đề phải không?

Phật Bảo: Không!

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Nhờ dụng đạo không phát sanh nên đắc bồ đề phải không?

Phật Bảo: Không!

Cụ thọ Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Nhờ dụng đạo phát sanh hay bất sanh mà đắc bồ đề chăng?

Phật Bảo: Không!

Cụ thọ Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Nhờ dụng đạo chẳng sanh, chẳng phải không sanh mà đắc bồ đề chăng?

Phật Bảo: Không!

Cụ thọ Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì do đâu mà đắc Bồ Đề?

Phật Bảo Thiện Hiện: Bồ Đề không do đạo, chẳng phải đạo mà đạt được.

Vì sao?

Vì Bồ Đề tức là đạo, đạo tức là Bồ Đề. Cho nên không do đạo, phi đạo mà được.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu bồ đề tức là đạo, đạo tức là bồ đề phải chăng Đại Bồ Tát đã đắc đạo bồ đề thì cũng phải chứng bồ đề?

Nếu vậy thì Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác do duyên gì mà vì chư Bồ Tát nói mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật và vô lượng, vô biên các Phật Pháp khác để khiến cho họ tu chứng?

Phật Bảo: Này Thiện Hiện: Ý ông thế nào?

Chẳng lẽ ông cho là Phật thật có đắc bồ đề sao?

Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Không!

Vì sao?

Vì Phật tức là bồ đề, bồ đề tức là Phật. Không nên nói Phật thật có đắc bồ đề.

Phật Bảo: Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Nhưng theo điều ông hỏi phải chăng Đại Bồ Tát đã đắc đạo bồ đề thì cũng đắc đạo bồ đề.

Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát tu đạo bồ đề chưa được viên mãn thì vì sao nói đã đắc bồ đề.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần