Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi Bốn - Phẩm Ca Diếp Bồ Tát - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẨM HAI MƯƠI BỐN
PHẨM CA DIẾP BỒ TÁT
PHẦN BA
Kỳ Bà liền đến can rằng: Tâu Đại Vương! Từ khi lập quốc đến nay, dầu tội rất nặng cũng chẳng xử đến người nữ, huống là mẹ đẻ.
Thái Tử vì nể Kỳ Bà nên không giết phu nhân. Dứt hẳn sự uống ăn thuốc men của Vua cha. Quá bảy ngày Vua cha chết. Thiện Kiến Thái Tử mới sanh lòng hối hận.
Đại Thần Võ Hành tâu rằng: Tất cả hành nghiệp đều không có tội, sao Đại Vương lại sanh lòng hối hận buồn rầu.
Kỳ Bà tâu rằng:
Đại Vương nên biết rằng việc làm của Đại Vương gồm hai tội nặng: Một là tội giết cha, hai là tội giết Tu Đà Hoàn. Tội nặng như vậy trừ Phật không ai có thể làm cho tội đó được trừ diệt.
Vua nói Đức Như Lai thanh tịnh ta là người tội nhơ uế làm sao dám đến thấy Phật.
Này thiện nam tử! Ta biết việc này nên bảo A Nan rằng sau ba tháng ta sẽ nhập Niết Bàn.
Thái Tử Thiện Kiến nghe tin này liền đến ra mắt ta. Ta vì Thiện Kiến mà thuyết pháp, do đây tội nặng được bớt nhẹ, Thiện Kiến được vô căn tín.
Này thiện nam tử! Hàng đệ tử của ta nghe những lời này chẳng hiểu ý của ta, nên cho rằng Đức Như Lai quyết định nói rốt ráo nhập Niết Bàn.
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Này thiện nam tử! Bồ Tát có hai hạng: Một là thật nghĩa, hai là giả danh.
Giả danh Bồ Tát nghe tin Phật sau ba tháng sẽ nhập Niết Bàn, đều sanh lòng thối thất mà nói rằng: Đức Như Lai còn là vô thường, tại sao chúng ta lại vì sự vô thường mà lại cần khổ trong vô lượng đời. Đức Như Lai thành tựu đầy đủ vô lượng công đức mà còn không thể phá hoại được tử ma, huống là bọn ta.
Này thiện nam tử! Ta vì hạng Bồ Tát này mà nói rằng Như Lai thường trụ không có biến đổi.
Các đệ tử của ta nghe lời trên đây chẳng hiểu ý của ta bèn xướng rằng Đức Như Lai trọn chẳng rốt ráo nhập Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Có những chúng sanh chấp đoạn kiến bảo rằng tất cả chúng sanh sau khi thân thể chết mất, những nghiệp thiện, nghiệp ác không có người lãnh thọ. Ta vì những người này mà nói rằng quả báo lành cũng như quả báo ác thiệt có người lãnh thọ.
Do đâu biết rằng có?
Như thuở quá khứ nơi thành Câu Thi Na có Thiện Kiến Vương: Lúc làm đồng tử trải qua tám muôn bốn ngàn tuổi, thời kỳ làm Thái Tử trải qua tám muôn bốn ngàn tuổi, đến lúc lên ngôi Vua cũng trải qua tám muôn bốn ngàn tuổi.
Thiện Kiến Vương ngồi riêng một mình suy nghĩ rằng: Chúng sanh phước mỏng tuổi thọ ngắn ngủi, thường có bốn thứ oan gia theo dỏi mà chúng sanh chẳng hay biết, mãi phóng dật. Ta nên xuất gia tu hành dứt tuyệt bốn thứ oan gia sanh, già, bệnh, chết.
Nhà Vua sai quan xây nhà thất bảo ở ngoài thành rồi bảo quần thần, hậu phi, các Vương Tử cùng tất cả quyến thuộc: Nay ta muốn xuất gia các người có bằng lòng không?
Các đại thần cùng quyến thuộc đều bằng lòng. Thiện Kiến Vương đem theo một người hầu hạ qua ở nơi nhà thất bảo tu tập từ tâm trải qua tám muôn bốn ngàn năm.
Do sự tu tập từ tâm này nên sau đó trải qua tám muôn bốn ngàn đời thường làm Chuyển Luân Thánh Vương, ba mươi đời làm Thích Đề Hoàn Nhân, vô lượng đời làm tiểu Quốc Vương.
Này thiện nam tử! Thiện Kiến Vương thuở xưa đó chính là tiền thân của ta. Các đệ tử của ta nghe những lời trên đây chẳng hiểu được ý của ta bèn nói rằng: Đức Như Lai quyết định nói có ngã và có ngã sở.
Lại một thời kỳ kia ta vì chúng sanh mà nói rằng ngã chính là tánh, nghĩa là những nhân duyên trong thân ngoài cảnh, mười hai nhân duyên, ngũ ấm, tâm, giới, công đức, hành nghiệp, tự tại thiên chính đây gọi là ngã. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai quyết định nói có ngã.
Này thiện nam tử!
Ngày kia có một Tỳ Kheo đến bạch rằng: Thế Tôn! Thế nào gọi là ngã, ai là ngã?
Duyên gì mà có ngã?
Ta bảo Tỳ Kheo đó rằng: Này Tỳ Kheo không có ngã không có ngã sở. Ngã đó chính là trước không mà nay có, có rồi trở lại không. Lúc nó sanh không từ đâu lại, lúc nó diệt cũng không đến đâu.
Dầu có nghiệp quả mà không có tác giả, không có ai rời bỏ ngũ ấm cũng hư không có ai thọ lấy ngũ ấm.
Như lời ông hỏi thế nào là ngã?
Ngã đó chính là thời kỳ vậy.
Ai là ngã?
Chính là nghiệp vậy.
Duyên gì mà có ngã?
Chính là ái vậy.
Này Tỳ Kheo! Như hai tay vổ nhau trong đó phát ra tiếng. Ngã cũng như vậy, chúng sanh, nghiệp, ái, do ba nhân duyên này mà gọi đó là ngã.
Này Tỳ Kheo! Nơi tất cả chúng sanh, sắc chẳng phải là ngã, trong ngã không có sắc, trong sắc không có ngã,thọ tưởng hành thức cũng như vậy.
Này Tỳ Kheo! Các ngoại đạo dầu nói là có ngã nhưng trọn chẳng lìa ngũ ấm. Không bao giờ có thể nói rằng riêng có ngã rời ngoài ngũ ấm. Tất cả chúng sanh, hành nghiệp như huyễn hóa như dương diệm.
Này Tỳ Kheo! Ngũ ấm đều là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh.
Này thiện nam tử! Lúc ta giảng dạy những lời trên đây, có vô lượng Tỳ Kheo quán ngũ ấm là vô ngã, là không ngã sở, mà chứng đặng quả A La Hán.
Này thiện nam tử! Các đệ tử của ta nghe lời nói trên đây chẳng hiểu được ý của ta cho rằng Đức Như Lai quyết định nói vô ngã.
Này thiện nam tử! Trong Khế Kinh ta lại nói rằng do ba sự hòa hiệp mà có thân: Cha mẹ, trung ấm. Hoặc có lúc ta nói bậc A Na Hàm nơi hiện thân nhập Niết Bàn, hoặc nói nơi thân trung ấm nhập Niết Bàn.
Hoặc nói rằng thân căn của trung ấm minh mẫn sáng suốt đều do nơi hạnh nghiệp đời trước, như Đề Hồ trong sạch.
Này thiện nam tử! Có lúc ta nói rằng chúng sanh tệ ác thọ thân trung ấm xấu xí như vải bố thô. Chúng sanh thuần thiện thọ thân trung ấm tốt đẹp như lụa trắng. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ýcủa ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói có thân trung ấm.
Này thiện nam tử! Ta lại vì những chúng sanh phạm tội nghịch mà nói rằng kẻ tạo tội ngũ nghịch sau khi chết chẳng vào địa ngục A tỳ.
Ta lại nói rằng Tỳ Kheo Đàm Ma Lưu Chi, sau khi chết chẳng vào địa ngục A tỳ, nơi khỏang giữa không chỗ dừng ở.
Ta lại bảo Phạm Chí Độc Tử: Này Phạm Chí! Nếu có thân trung ấm thời có sáu sự có. Ta lại nói có chúng sanh Cõi Vô Sắc không có thân trung ấm. Các đệ tử của ta nghe lời trên đây chẳng hiểu được ý của ta bèn nói rằng Đức Phật quyết định nói không thân trung ấm.
Này thiện nam tử! Trong Khế Kinh ta lại nói có thối thất.
Nhân nơi vô lượng sự giải đãi biếng trể, các Tỳ Kheo chẳng tu hành đạo hạnh nên nói có năm điều thối thất:
Một là thích nhiều việc.
Hai là thích nói việc đời.
Ba là ưa ngủ nghỉ.
Bốn là ưa gần người tại gia.
Năm là ưa thường dạo đi.
Do năm nhân duyên này làm cho Tỳ Kheo thối thất.
Nhân duyên thối thất lại có hai thứ:
Một là nội nhân.
Hai là ngoại nhân.
Bậc A La Hán dầu rời khỏi nội nhân chẳng lìa ngoại nhân. Do nhân duyên ngoài nên sanh phiền não. Vì sanh phiền não thời thối thất.
Có Tỳ Kheo tên là Cù Đàm, sáu phen thối thất, sanh lòng hổ thẹn lại tiến tu lần thứ bảy bèn được, được rồi sợ thối thất lấy dao tự đâm mình mà chết.
Ta lại nói có lúc giải thoát, hoặc nói sáu hạng A La Hán. Các đệ tử của ta nghe những lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai quyết định nói có thối thất.
Này thiện nam tử! Trong Kinh lại nói như đã cháy thành than thời chẳng còn trở lại làm cây gỗ. Như bình đã bể thời không còn công dụng của bình. Phiền não cũng như vậy, A La Hán đã dứt thời trọn chẳng có lại nữa.
Ta cũng nói chúng sanh nhân duyên có phiền não do ba điều: Một là chưa dứt phiền não, hai là chẳng dứt nhân duyên, ba là chẳng khéo suy nghĩ.
Bậc A La Hán không có hai điều: Nghĩa là đã dứt phiền não và đã khéo suy nghĩ. Các đệ tử của ta nghe lời này, chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai quyết định nói không thối thất.
Trong Khế Kinh ta nói thân của Như Lai có hai thứ: Một là sanh thân, hai là pháp thân. Sanh thân là thân phương tiện ứng hóa. Thân này có thể nói là sanh già bệnh chết, cao thấp đen trắng, là đây là kia là học là vô học. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai quyết định nói thân Phật là pháp hữu vi.
pháp thân là Thường Lạc Ngã Tịnh, lìa hẳn tất cả sanh già bệnh chết, chẳng phải trắng đen, chẳng phải cao thấp, chẳng phải đây kia, chẳng phải học vô học, Phật ra đời hoặc chẳng ra đời vẫn thường trụ chẳng động không biến đổi.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta, bèn cho rằng Đức Như Lai quyết định nói thân Phật là pháp vô vi.
Này thiện nam tử! Trong Khế Kinh ta nói mười hai nhân duyên: Từ vô minh sanh ra hành, từ hành sanh ra thức, từ thức sanh ra danh sắc, từ danh sắc sanh ra lục nhập, từ lục nhập sanh ra xúc, từ xúc sanh ra thọ, từ thọ sanh ra ái, từ ái sanh ra thủ, từ thủ sanh ra hữu, từ hữu sanh ra sanh, từ sanh thời có già chết buồn khổ.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn nói rằng Đức Như Lai nói mười hai nhân duyên quyết định là hữu vi.
Lại một ngày kia ta bảo các Tỳ Kheo rằng mười hai nhân duyên tánh tướng là thường trụ không luận có Phật hay không Phật.
Có mười hai duyên chẳng từ duyên sanh, có từ duyên sanh chẳng phải mười hai duyên, có từ duyên sanh cũng là mười hai duyên, có chẳng phải duyên sanh mà cũng chẳng phải là mười hai duyên.
Có mười hai duyên chẳng phải là duyên sanh, chính là mười hai chi đời vị lai. Có từ duyên sanh mà chẳng phải là mười hai chính là thân ngũ ấm của A La Hán. Có từ duyên sanh cũng là mười hai duyên chính là thân ngũ ấm của phàm phu.
Mười hai nhân duyên chẳng phải là duyên sanh, chẳng phải mười hai duyên chính là hư không Niết Bàn.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta, bèn cho rằng Đức Như Lai nói mười hai nhân duyên quyết định là vô vi.
Này thiện nam tử! Trong Khế Kinh ta nói tất cả chúng sanh tạo nghiệp thiện ác, lúc chết, tứ đại này liền hư hoại. Người tạo nghiệp thuần thiện tâm thức liền đi lên, người tạo nghiệp thuần ác tâm thức liền đi xuống.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói tâm quyết định là thường trụ.
Này thiện nam tử!
Một thuở kia ta nói với Vua Tần Bà Ta La rằng: Này Đại Vương! Sắc là vô thường vì từ nhân vô thường mà sanh ra sắc. Nếu sắc đã từ nhân vô thường mà sanh, người trí không bao giờ nói sắc là thường.
Nếu sắc là thường lẽ ra chẳng hoại diệt sanh các khổ não. Nay thấy sắc hoại diệt nên biết rằng sắc là vô thường. Như sắc, thọ tưởng hành thức cũng như vậy.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói tâm quyết định đoạn diệt.
Này thiện nam tử! Trong Khế Kinh ta nói hàng đệ tử lãnh thọ những hoa hương vàng bạc vật báu vợ con tôi tớ, tám vật bất tịnh chứng được chánh đạo cũng chẳng rời bỏ những vật ấy. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói hưởng thọ ngũ dục chẳng chướng ngại Thánh đạo.
Lại có lúc ta nói người tại gia không thể chứng được chánh đạo. Hàng đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói hưởng thọ ngũ dục quyết định chướng ngại chánh đạo.
Trong Khế Kinh ta nói xa lìa phiền não chưa được giải thoát như Cõi Dục tu tập pháp thế đệ nhất. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói pháp thế đệ nhất chỉ là Cõi Dục.
Trong Khế Kinh ta lại nói noãn pháp, đảnh pháp, nhẫn pháp, thế đệ nhất pháp thuộc nơi sơ thiền đến Tứ Thiền. Với các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói bốn pháp ấy thuộc nơi Cõi Sắc.
Trong Khế Kinh ta lại nói hàng ngoại đạo đã dứt được phiền não Cõi Tứ Thiền tu tập noãn pháp đảnh pháp, nhẫn pháp, thế đệ nhất pháp, quán Tứ đế chứng quả A Na Hàm. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói thế đệ nhất pháp thuộc nơi Cõi Vô Sắc.
Trong Khế Kinh ta từng nói trong bốn thứ bố thí có ba điều trong sạch:
Một là thí chủ tin nhân tin quả tin bố thí, người thọ chẳng tin nhân, chẳng tin quả cùng bố thí.
Hai là thí chủ chẳng tin nhân quả và bố thí, người thọ tin nhân quả và bố thí.
Ba là thí chỉ và người thọ cả hai đều có lòng tin.
Bốn là thí chủ và người thọ cả hai đều chẳng tin.
Bốn thứ bố thí trên đây ba hạng ban đầu là trong sạch.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói bố thí chỉ thuộc nơi ý.
Có một lúc kia ta lại nói rằng người bố thí lúc bố thí đem năm việc ra bố thí: Một là bố thí sắc, hai là bố thí sức lực, ba là bố thí an ổn, bốn là bố thí mạng sống, năm là bố thí biện tài, do nhân duyên này nên thí chủ trở lại được năm quả báo. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Phật nói bố thí tức là năm ấm.
Có một lúc ta nói rằng: Niết Bàn tức là viễn ly, phiền não dứt hẳn không còn thừa sót, như đèn đã tắt, không còn pháp gì sanh trở lại, Niết Bàn cũng như vậy.
Nói hư không đó tức là không chỗ có, như trong đời gọi chỗ không có là hư không, chẳng phải do trí dứt mới không chỗ có.
Nếu hư không là có lẽ ra phải có nhân duyên nếu đã có nhân duyên lẽ ra phải có dứt diệt, bởi hư không vốn là không nên không có dứt diệt. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Phật nói không có ba pháp vô vi.
Một lúc kia ta bảo Mục Kiền Liên rằng luận về Niết Bàn tức là chương cú, tức là dấu vết, tức là chỗ rốt ráo, là chỗ vô sở úy, là bậc Đại Sư, là đại quả, là trí rốt ráo, là đại nhẫn, là vô ngại tam muội, là đại pháp giới, là cam lộ vị, là khó thấy biết.
Này Mục Kiền Liên! Nếu nói rằng không Niết Bàn, tại sao có người sanh lòng hủy báng Niết Bàn lại phải đọa địa ngục. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói có Niết Bàn.
Lại một lúc kia ta bảo Mục Kiền Liên rằng nhãn căn chẳng bền chắc nhẫn đến thân cũng chẳng bền chắc. Vì chẳng bền chắc nên gọi là hư không. Ăn nuốt xuống rồi xoay chuyển tiêu hóa. Tất cả âm thanh đều gọi là hư không. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai quyết định nói có hư không vô vi.
Ta lại bảo Mục Kiền Liên có người chưa được quả Tu Đà Hoàn, lúc trụ nơi nhẫn pháp, dứt vô lượng quả báo trong ba đường dữ, nên biết rằng chẳng phải trừ nơi trí mà dứt diệt. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta, bèn cho rằng Đức Như Lai quyết định nói có chẳng phải do trí mà dứt diệt.
Lại một lúc kia ta nói với Tỳ Kheo Bạt Ba nếu Tỳ Kheo quán nơi sắc: Hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc gần hoặc xa, hoặc thô hoặc tế, những sắc như vậy chẳng phải là ngã chẳng phải ngã sở:
Quán như vậy có thể dứt được lòng tham ái nơi sắc, Bạt Ba bạch rằng: Thế nào gọi là sắc?
Ta đáp: Tứ đại gọi rằng sắc, thọ tưởng hành thức bốn ấm này gọi là danh. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai quyết định nói sắc là tứ đại.
Này thiện nam tử! Ta lại nói rằng như nhân nơi mặt gương mà có bóng hình hiện ra, sắc cũng như vậy nhân nơi tứ đại tạo thành. Chính là những thứ to, nhỏ, rít, trơn, xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, vắn, vuông, tròn, cong, ngay, nhẹ, nặng, lạnh, nóng, đói khát, khói, mây, bụi mù, đây gọi là những sắc do tứ đại tạo thành dường như vang bóng.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói có tứ đại thời có sắc do tứ đại tạo thành, hoặc nói có tứ đại mà không có sắc.
Này thiện nam tử! Trước kia Phương Tử Bồ Đề nói rằng nếu có Tỳ Kheo trì giới lúc phát tâm ác, nên biết rằng lúc đó mất giới Tỳ Kheo.
Ta nghe lời này bèn bảo rằng: Này Phương Tử! Giới có bảy thứ từ nơi thân và miệng mà có vô tác biểu sắc. Do nhân duyên vô tác biểu sắc này nên dầu tâm của Tỳ Kheo ở trong ác vô ký nhưng chẳng gọi là mất giới, vẫn còn gọi là trì giới. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Phật nói có vô tác biểu sắc.
Này thiện nam tử! Trong các Kinh khác ta có nói rằng giới chính là ngăn chế pháp ác, nếu chẳng làm ác đây gọi là trì giới. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn xướng rằng Đức Như Lai quyết định nói không có vô tác biểu sắc.
Này thiện nam tử! Trong Khế Kinh ta từng nói sắc ấm của Thánh Nhân nhẫn đến thức ấm đều là do vô minh sanh ra. Tất cả phàm phu cũng như vậy, từ vô minh sanh ra ái, nên biết rằng ái này chính là vô minh, từ ái sanh ra thủ, nên biết rằng thủ này chính là vô minh ái.
Tù thủ sanh ra hữu, hữu này chính là vô minh ái thủ. Từ hữu sanh ra thọ, nên biết rằng thọ này chính là hành hữu.
Từ nơi thọ sanh ra danh sắc, vô minh ái, thủ, hữu, hành, thọ, xúc, thức, lục, nhập v.v… do đây nên thọ chính là mười hai chi. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của Ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói không có tâm sở.
Này thiện nam tử! Trong Khế Kinh ta từng nói từ nơi nhãn, sắc, minh và ác dục, do bốn thứ này làm nhân duyên sanh ra nhãn thức.
Ác dục trong đây chính là vô minh, lúc dục cầu thời gọi là ái, do ái mà có thủ, thủ đây gọi là nghiệp, nghiệp làm duyên cho thức, thức làm duyên cho danh sắc, danh sắc làm duyên cho lục nhập, lục nhập làm duyên cho xúc, xúc làm duyên cho tưởng thọ ái, tín, tinh tấn định và huệ, những pháp này nhân nơi xúc mà sanh nhưng chẳng phải là xúc.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói có tâm sở.
Này thiện nam tử! Hoặc có lúc ta nói chỉ có một cỏi, hoặc nói hai ba bốn năm sáu mười tám chín nhẫn đến hai mươi lăm Cõi. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói có năm cõi, hoặc nói có sáu cõi.
Này thiện nam tử! Ngày trước lúc ở nơi rừng Ni Câu Đà tại thành Ca Tỳ La Vệ, Thích Ma Nam bạch với ta rằng: Thế Tôn sao gọi là Ưu Bà Tắc?
Ta nói: Nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào căn thân đầy đủ thọ ba pháp quy y thời gọi là Ưu Bà Tắc.
Thích Ma Nam lại hỏi: Thế Tôn sao gọi là nhất phần Ưu Bà Tắc?
Ta nói: Nếu thọ Ba pháp quy y và thọ một giới thời gọi là nhất phần Ưu Bà Tắc. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của Ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói Ưu Bà Tắc được thọ từ phần.
Lại một lúc kia ta ở bên Sông Hằng, Ca Chiên Diên đến bạch với ta rằng: Thế Tôn! Tôi giáo hoá chúng sanh khiến họ thọ pháp bát quan trai: Hoặc một ngày, hoặc một đêm, hoặc một giờ, hoặc một niệm, những người này được thành trai pháp chăng?
Ta nói: Này Ca Chiên Diên, những người này chỉ được điều lành mà chẳng được gọi là được trai pháp. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn nói rằng Đức Như Lai nói pháp Bát quan trai thọ đủ mới được.
Trong Khế Kinh ta từng nói rằng nếu có Tỳ Kheo đã phạm bốn tội trọng thời chẳng gọi là Tỳ Kheo, gọi là phá Tỳ Kheo, hư mất Tỳ Kheo chẳng còn có thể sanh chủng tử pháp lành, như hột giống đã cháy chẳng còn mọc mầm sanh bông trái, như cây Đa La nếu ngọn đã bị đứt thời chẳng còn sanh trái.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói các Tỳ Kheo phạm giới trọng rồi bèn mất giới Tỳ Kheo.
Trong Khế Kinh, ta vì Thuần Đà mà nói bốn hạng Tỳ Kheo:
Một là hạng rốt ráo đến chánh đạo.
Hai là hạng chỉ bày chánh đạo.
Ba là hạng lãnh thọ chánh đạo.
Bốn là hạng nhiễm ô chánh đạo.
Người phạm bốn tội trọng là hạng nhiễm ô chánh đạo. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói các Tỳ Kheo đã phạm bốn tội trọng chẳng mất giới.
Trong Khế Kinh ta bảo các Tỳ Kheo có nhất thừa, nhất đạo, nhất hạnh, nhất duyên, bốn pháp này có thể làm cho chúng sanh được đại tịch tịnh, dứt hẳn tất cả sự ràng buộc sầu khổ, khổ quả cùng khổ nhân, làm cho tất cả chúng sanh đến nơi Nhất Thừa.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói Tu Đà Hoàn nhẫn đến A La Hán đều được Phật Đạo.
Này thiện nam tử! Trong Khế Kinh ta nói Tu Đà Hoàn bảy lần sanh qua lại trong nhân gian cùng Cõi Trời, bèn chứng A La Hán nhập Niết Bàn. Tư Đà Hàm một lần sanh trong nhân gian và Cõi Trời bèn nhập Niết Bàn.
A Na Hàm phàm có năm hạng: Hoặc có trung gian nhập Niết Bàn nhẫn đến thượng lưu nhập Niết Bàn.
A La Hán phàm có hai hạng: Một là hiện tại, hai là vị lai, hiện tại cũng dứt phiền não ngũ ấm, vị lai cũng dứt phiền não ngũ ấm.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói Tu Đà Hoàn đến A La Hán chẳng được Phật Đạo.
Trong Khế Kinh ta từng nói Phật Tánh đủ có sáu điều:
Một là thường, hai là thật, ba là chân, bốn là thiện, năm là tịnh, sáu là có thể thấy.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói Phật Tánh của chúng sanh rời ngoài chúng sanh mà có.
Ta lại nói Phật Tánh của chúng sanh như hư không. Hư không chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải nội ngoại, chẳng phải sắc thinh hương vị xúc, Phật Tánh cũng như vậy.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói Phật Tánh của chúng sanh rời ngoài chúng sanh mà có.
Ta lại nói Phật Tánh của chúng sanh dường như kho châu báu ẩn kín trong nhà của bần nữ, như Kim Cang bảo châu ẩn trên trán của lực sĩ, như suối Cam Lộ của Chuyển Luân Thánh Vương. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói Phật Tánh của chúng sanh rời ngoài chúng sanh mà có.
Ta lại nói hàng Nhất xiển đề phạm bốn tội trọng, hủy báng Kinh Điển Đại Thừa, tạo tội ngũ nghịch đều có Phật Tánh. Những chúng sanh này đều không có pháp lành. Phật Tánh là lành. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói Phật Tánh của chúng sanh rời ngoài chúng sanh mà có.
Ta lại nói chúng sanh chính là Phật Tánh, vì nếu rời chúng sanh thời chẳng được vô thượng bồ đề.
Do đây nên ta vì Vua Ba Tư Nặc mà nói ví dụ rờ voi: Như bọn người mù nói hình dạng của voi, dầu chẳng trúng nhưng đều chẳng rời ngoài voi. Chúng sanh nói sắc, nói thọ tưởng hành thức là Phật Tánh cũng như vậy, dầu chẳng phải là Phật Tánh nhưng chẳng phải rời Phật Tánh. Như ta vì Vua Ba Tư Nặc mà nói ví dụ ống không hầu Phật Tánh cũng như vậy.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn lập ra nhiều thuyết khác nhau, như người mù hỏi màu của sữa, Phật Tánh cũng như vậy. Do cớ này, hoặc có người nói hàng Nhất xiển đề phạm bốn tội trọng hủy báng Kinh đại thừa tạo tội ngũ nghịch đều có Phật Tánh. Hoặc có người nói là không có Phật Tánh.
Trong Khế Kinh nhiều lần ta nói rằng một người xuất thế thời nhiều người được lợi ích. Trong một Cõi nước không có hai Vua Chuyển Luân.
Trong một thế giới không có hai Đức Phật xuất thế. Một tứ thiên hạ không có tám Tứ Thiên Vương, nhẫn đến không có hai Tha Hoá Tự Tại Thiên.
Ta nói từ Diêm Phù Đề, dưới đến địa ngục A tỳ, trên đến Trời Sắc Cứu Cánh. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng Đức Như Lai nói không có Phật mười phương.
Thật ra trong các Kinh Đại Thừa ta nói có thập phương Chư Phật.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba - Ba Pháp - Phẩm Tám - Phẩm Ananda - Phần Chín - Hương
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Năm - Kinh Tập - Chương Ba - đại Phẩm - Kinh Màgha
Phật Thuyết Kinh Phật Danh - Phần Bốn Mươi Hai
Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Thế Ký - Phẩm Bốn - ðịa Ngục - Phần Một